Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

VĂN NGHỆ SĨ UỐNG RƯỢU


Rượu có từ hơn 8.000 năm trước công nguyên và người ta bảo đó là một phát minh vĩ đại của loài người, sau lửa. Từ đó, "Phi tửu bất thành lễ" (không rượu chưa thành lễ), không rượu cuộc đời cũng nhạt nhẽo buồn chán. Khi vui, lúc buồn  người ta đem rượu ra uống. Đám cưới  uống chén rượu chung vui, đám tang cầm chén rượu chia buồn. Ăn uống là một thứ văn hóa ẩm thực và uống rượu cũng là một nét văn hoá - văn hoá uống rượu.
Lưu Linh tên chữ là Bá Luân, người đời Tấn, Trung Quốc. Ông là một người trong nhóm Trúc lâm thất hiền (bảy người hiền trong rừng trúc), tính tình phóng khoáng, thích uống rượu. Và, uống không biết say. Ông có làm bài thơ "Tửu đức tụng" ca tụng đức uống rượu: "Có bậc tiên sinh đại nhân, lấy đất trời làm một buổi, vạn ngày làm thoáng chốc, nhật nguyệt làm then phên, lấy khắp bốn phương tám hướng làm sân ngõ. Đi về không dấu vết, ở chẳng nhà cửa, màn trời chiếu đất, tự do tự tại. Dừng lại thì nâng chén ôm bầu, khi đi thì đeo bình đeo nậm. Duy lúc này chỉ có rượu là hay, ngoài ra thì còn việc gì nữa?" (Dịch đoạn đầu).Nhờ bài thơ này mà Lưu Linh được lưu danh trong thiên hạ.
Người xưa chia cảm nhận rượu ra các cung bậc. Đi qua bao đời, ta thấy có những người uống rượu rất hay, và có những người rất dở; có những bậc hiền tửu, tiên tửu, và cũng có loại cuồng tửu, cẩu tửu. Uống rượu lợi hay hại, người ta đã nói rất nhiều, nhưng câu trả lời đang còn ở phía trước, tuỳ từng người, và từng trường hợp. Ở đây, tôi chỉ muốn giới thiệu một phương diện văn hoá của văn nghệ sỹ: uống rượu. Đối với một số người,  "Rượu kích thích lòng ham muốn, nhưng lại thiêu trụi tài năng" (W. Shakespeare). Đối với phần lớn văn nghệ sỹ, uống rượu như một nhu cầu để sống và viết. Cách uống rượu của họ cũng khác với nhiều người. Họ uống rượu không phải vì nghiện rượu, mà rượu chỉ là một trong những điều kiện để cảm xúc thăng hoa. Chúng ta có thể trân trọng những người biết dùng rượu như họ. Dùng rượu mà có những tinh hoa nghệ thuật đế đời thì cũng được chứ sao!
Sau đây là một số trường hợp văn nghệ sỹ Việt Nam uống rượu có tính điển hình, tôi kiếm tìm từ sách báo, tổng hợp từ internet, có chắt lọc, chỉnh sửa, trình bày  thành một ghi chép liền mạch, dễ hiểu, để chúng ta cùng tham khảo.


1. Tản Đà (1889 - 1939):
   

Tản Đà nói về thơ, rượu:
Trời đất sinh ra thơ với rượu
Không thơ, không rượu sống như thừa
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ
                 (Ngày xuân thơ rượu)
Ông biện minh cho cái sự say của mình:
Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thì hư vậy, say thời cứ say
Đất say, đất cũng lăn quay
Trời say, mặt cũng đỏ gay, ai cười?
                         (Lại say)
Trong cuốn Văn thi sĩ tiền chiến, nhà văn Nguyễn Vỹ kể: "Sau khi tuần báo Phụ nữ đăng bài thơ Gởi Trương Tửu của tôi, một buổi chiều tôi đến chơi ở tòa báo, bỗng thi sĩ Tản Đà từ bên ngoài bước vào. Một chiếc khăn đóng đã viền mòn, đáng lẽ đội trên đầu ông lại đeo tòn teng trong cánh tay. Vẫn chiếc áo lương thâm cũ mà tôi đã thấy ông mặc năm năm trước. Ông hỏi cô thư ký: "Có ông Nguyễn Vỹ ở đây không?". Cô bạn cười chỉ tôi: "Thưa ông, Nguyễn Vỹ đây ạ"... Ông đưa tôi lên tàu điện, phố Hàng Bông. Nửa giờ sau đến một gian nhà ở ấp Thái Hà, nhà của ông. Ông lấy chai rượu và hai cái cốc ra. Tôi không biết uống rượu, nhưng vì xã giao không dám nói ra, sợ phật ý thi sĩ có tiếng là "Lưu Linh Việt Nam". Tôi cứ để mặc ông rót rượu ra cốc... ông bắt đầu hỏi tôi: "Tôi thích bài thơ Gởi Trương Tửu của ông, nên mời ông uống rượu. Trương Tửu là ai?". "Thưa cụ, bạn cháu ạ". "Ông ấy có biết uống rượu không?". "Dạ, anh ấy tên là Trương Tửu, thì cụ khỏi hỏi! Vả lại dòng dõi Trương Phi đấy ạ!". "Hôm nào rủ ông ấy đến uống rượu với tôi". "Dạ". "Nhưng tôi giận ông lắm vì một câu trong bài thơ của ông. Tôi định gặp ông thì tôi bảo". "Thưa cụ, câu nào ạ?". "Sao ông lại bảo: Nhà văn An Nam khổ như chó? Ông so sánh nhà văn chúng ta với kiếp chó, mà ông không hổ thẹn ư?". "Thưa cụ, nếu cháu so sánh nhà văn với chó, thì chó nó thẹn, chớ sao nhà văn lại thẹn?". Ông Tản Đà làm thinh nốc hết ly rượu, rồi rót luôn một ly nữa. Mặt ông vẫn chưa đỏ. Bỗng dưng ông phì cười, tiếng cười nổ lên đột ngột và kêu to, làm tôi giật mình. Xong, ông nói, không ngó tôi: "Ông làm tôi bượch cười!" (ông Tản Đà hay nói bượch cười). Rồi ông rưng rưng nước mắt... Tự nhiên tôi cũng muốn khóc như ông. Mặt Tản Đà đỏ như quả gấc!Trương Tửu kể về "Bữa rượu tam đỉnh" độc đáo của Tản Đà như sau: "Chúng tôi uống rượu ở trên căn gác nhà số 417 tại Bạch Mai, chỗ cụ Tản Đà mở phòng xem số Hà Lạc và dạy Hán văn. Thi sĩ rót rượu mời chúng tôi: "Thứ rượu này có ngâm đan sâm và đương quy, uống đậm giọng mà không hại cho sức khỏe. Hai ông cứ uống thật say, không nhức đầu chóng mặt gì đâu mà ngại". Chúng tôi chưa kịp đáp lời, cụ đã lại nói tiếp: "Để hôm nay tôi xào nấu các thức ăn, hai ông xem. Tôi làm bếp lại có phần giỏi hơn làm văn... (cười và quay lại gọi gia nhân) Này anh Nhỏ, anh đặt cái hỏa lò nhỏ lên bàn này tôi... Được rồi! Anh đặt luôn cái soong chả dê này lên cái hỏa lò nhỡ kia, thêm tí mỡ vào... Được rồi! Bây giờ anh nhóm lửa cái hỏa lò to kia lên để nấu canh, húp cho giã rượu... Kìa, hai ông xơi rượu tự nhiên đi... Đấy ăn trên lửa có phải ngon không? (cười to). Một bữa rượu, ba cái hỏa lò! Sang thật! Ngày xưa vua chúa dùng ngũ đỉnh, hôm nay ta dùng tam đỉnh chứ thua gì !"... Đáp lại thịnh tình của chủ nhân, bạn tôi, ông Nguyễn Đình Lạp, nghiêng mình thưa: "Chúng tôi được hầu rượu cụ hôm nay, thật lấy làm hân hạnh và vui vẻ lắm". Tôi tiếp lời bạn, thân mật hơn: "Chúng tôi không ngờ một nhà thơ tài hoa của núi Tản sông Đà lại nấu nướng thức ăn có nghệ thuật đến thế" (Trương Tửu - Uống rượu với Tản Đà).Năm 1938, Tản Đà 50 tuổi còn nhà thơ Trần Huyền Trân mới 25 tuổi. Vậy mà giữa họ đã có một tình bạn vong niên, cái chất xúc tác cho tình bạn hiếm có ấy chính là... men rượu. Bài thơ Mộng uống rượu với Tản Đà của Trần Huyền Trân đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy (1938) là một sự đồng cảm sâu sắc của một nhà thơ mới với một nhà thơ cũ, sinh bất phùng thời: "Cụ hâm rượu nữa đi thôi/Be này đã cạn hết rồi còn đâu!Rồi lên ta uống với nhau/Rót đau lòng ấy vào đau lòng này/ Say đâu? Lòng chửa được đầy/Cái đau nhân thế thì say nỗi gì?/Đường xa ư cụ? Quản chi!/Đi gần hạnh phúc là đi xa đường... Rót đi, rót... rót đi thôi/ Rót cho tôi cả năm mươi tuổi đầu/Nguồn đau cứ rót cho nhau/Lời say sưa mới là câu chân tình".Vũ Bằng - tác giả Món ngon Hà Nội tâm sự:"Người như Tản Đà để ở xa mà kính trọng, cảm phục thì được, chứ ở gần thì không thể nào chịu nỗi!...Bất cứ ở đâu ông cũng coi như chỗ không người, ăn uống bừa bãi, nói lè nhè ầm ĩ, có khi đương yên lành chẳng làm sao bỗng đổi ra giọng gay gắt với người đối thoại, tuồng như ông chính là đấng trích tiên thật, thiên hạ ai cũng sợ ông..." (Vũ Bằng - Tản Đà uống rượu làm cho tôi say đến bây giờ, NXB Văn học, 1970).
Phan Khôi - người "vinh hạnh" được "quan tòa" Tản Đà lên án, đòi đem ra Văn Miếu đánh đòn , cũng đã nhận xét như sau: "Cái lối đánh chén của ông Hiếu kề cà mất thì giờ lắm, tôi chịu không được nên ít khi tôi ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hỏa lò để ở bàn mà tự làm lấy món ăn. Có khi mãn một tiệc ăn, người nhà phải thay than trong hỏa lò đến năm sáu bận. Thường thường một mình ông vừa ăn uống lại vừa viết nữa. Ông cho có thế mới là thú (Tôi với Tản Đà thi sĩ, Tao Đàn số 9-10, năm 1939).
Chính Tản Đà cũng thường tự coi mình là "Khổng tử chi đồ", "trích tiên", một thế ngoại cao nhân, tỏ ra khác biệt với người dương thế. Ngô Tất Tố là bạn thân của Tản Đà (nhưng đã tuyệt giao với ông trong suốt 10 năm cuối đời) có lần phác họa về con người ông: "Không có tiền thì rầu rĩ, oán trách, rũ người ra như con cú, thế mà một khi có tiền thì lại không muốn làm việc gì hết, chỉ uống và ăn, hết ăn lại uống. Chưa uống thì bảo không có rượu như cái máy không xăng nhớt không chạy được, uống vào say rồi thì nằm khoèo ra ngủ và lý luận một mình rằng say mà làm việc thì hỏi đời còn có cái gì thú nữa?". 


2. Nguyễn Tuân (1910 - 1987):
 
 
Nguyễn Tuân được coi là người sành ăn. Nhà văn Tô Hoài nói: ông Tuân rất mê lối sống ngông của ông Tản Đà. Mà Tản Đà là một ông ăn uống chúa cầu kỳ. Nguyễn Tuân học theo, dần dần lại nổi tiếng hơn cả thầy, có khi còn mang vạ.
Một dạo ông viết bài ca ngợi phở, giò chả. Lúc ấy xã hội đang thiếu gạo, ăn phở là vi phạm chính sách lương thực. Thịt càng hiếm, giò chả là thứ xa xỉ, nhiều người dân như đã quên hẳn mùi vị các món ấy. Nguyễn Tuân bị phê phán lên bờ xuống ruộng. Đến nỗi bà bán rong giò chả gần nhà ông phải ái ngại cho ông: " Chúng nó ăn ngập răng thì không ai nói, ông thì ăn bao nhiêu, tôi bán cho ông tôi biết chứ. Khốn khổ, phở giấy, giò giấy mà hành người ta."
Ăn, đối với Nguyễn Tuân là một nghệ thuật, và cách ăn của ông khá cầu kỳ. Uống cũng vậy. Nguyễn Tuân thường xuyên uống rượu, coi đó như một nhu cầu không thể thiếu. Có khi uống nhiều, say tuý luý, nhưng thường là chỉ nhấm nháp một ly, bằng thứ rượu ngon, chọn lựa rất kỹ của mình. Đi đâu, ông thường mang theo, ủ ấm trong người chai rượu dẹt,  thỉnh thoảng đứng trước cảnh trời nước gợi hứng, lấy ra rót một ly nhỏ khề khà. Những khi có được chai rượu ngon (Cognac của Pháp chẳng hạn, có thể do Thủ tướng PVĐ, hay một vị nào đó quý ông và được ông quý, biếu), ông mời  bốn người bạn rất quý của mình đến uống. Đồ nhắm là đĩa mắm thu nhỏ, bốn cây tăm xỉa mắm và nâng cốc hạ ly, để nói về những chuyện tâm đắc của mình.
Trong "Vang bóng một thời", nhiều lần Nguyễn Tuân kể về thú nhấm nháp sang trọng của người xưa (Truyện Hương cuội: Chiều ba mươi tết, cụ cử, cụ tú, cụ kép cùng thưởng tiệc rượu Thạch lan hương, người bõ già kính cẩn chắp tay đứng sau lưng chủ, có vẻ cũng thèm say lắm. Rồi mỗi một chén  ngừng là một lời thơ trong trẻo cất lên, cứ thế cho tàn hết một buổi chiều). Người kể Hương Cuội cũng là người hay rượu . Vũ Bằng kể rằng Nguyễn Tuân có khi "ngưu ẩm", cũng có khi khệnh khạng một mình, một chiều bên hồ Tây với một ly Mai quế lộ.
Gần đây, có vài tờ báo Việt ngữ tại hải ngoại đăng lại một bài hát nói "Say", bảo của Nguyễn Tuân làm từ năm 1931, cách đây gần 80 năm. Điều đó khiến nhiều người ngạc nhiên,  thú vị, không hiểu có đúng là của Nguyễn Tuân không, vì xưa nay không ai thấy thơ ông đăng báo. Xin dẫn ra đây 4 câu mưỡu đầu:
Hạnh hoa thôn đã đây rồi,
Chơi đi cho thỏa một đời thông minh,
Nợ men gấp mấy nợ tình,
Cõi trần ướm hỏi Lưu Linh mấy chàng? 
Trong bút ký "Một ngày theo Nguyễn Tuân đi chơi Huế", Nguyễn Quang Hà kể:
 "Trong đò của ngư dân trên phá Tam Giang, đò nào cũng có bếp, có lò than để chiều khách ăn đặc sản của phá. Hôm nay Nguyễn Tuân không ăn trên đò, ông bảo đem lò than và tôm lên ngồi bên giếng Cam Lồ ngay dưới chân núi Túy Vân  để nhấm nháp. Ông tự nướng lấy tôm. Đôi đũa ông gắp tôm lật đi lật vê. Ông chìa một con tôm vừa gắp trong lò ra, đưa đến trước mặt tôi, ông bảo:
- Em ạ, nướng tôm còn một chút lòng đào như thế này, ăn mới biết thế nào là vị tôm ngọt. Tôm phá Tam Giang, tôm rằn nước lợ ở đây ngon nhất nước đó, em à.
Vừa nướng tôm, ông vừa lấy ra từ túi áo ngực trái một chai rượu chỉ to bằng bốn ngón tay và cũng lép như bàn tay, ông chạm chai vào vai trần của tôi:
- Em có thấy chai rượu ấm lên không? Hơi nóng của trái tim ủ nó nóng lên đấy. Uống rượu nóng thế này mới bốc và mới biết thế nào là hương thơm của rượu Ông lấy trong túi áo kia một chiếc chén nhỏ bằng hạt mít. Ông chắt rượu ra đó, mỗi chén rượu, ông lại nhắm một con tôm lòng đào. Ông đưa cho tôi một chén rượu:
- Nào em, hãy nếm một chút hương vị thanh tao của cuộc đời này đi!
Quả nhiên uống rượu nóng thấm thía một cách kỳ lạ. Tôi chợt nhớ câu thơ của Nguyễn Bính: "Em rót cho anh nước rượu đầu. Hai đứa uống chung và lại thẹn. Nghẹn ngào hai đứa uống chung nhau".


3. Văn Cao (1923 - 1995):
  
Có một nhà thơ - nhạc sĩ cũng thường xuyên làm bạn với rượu, đó là Văn Cao. Thật ra, ông ít khi uống, mà nhiều hơn, ông chỉ "ngồi thiền" trước chén rượu. Người ta nói những người uống rượu như thế là những người "mượn rượu", mượn chuyện uống rượu, mượn cái không khí rượu để ngẫm nghĩ một điều gì đó, chuyện trò tương tác với bạn bè anh em, hay cô đơn du hành trong tâm trí tới những vùng xa lạ nào của tâm tưởng.
Đúng là rượu gắn bó với phần lớn cuộc đời Văn Cao, nhất là trong khoảng 40 năm cuối đời ông. Nhưng vì ông uống rượu theo kiểu riêng như vậy, nên lượng cồn chảy vào người không nhiều. Có những buổi Văn Cao chỉ ngồi trước độc nhất một chén rượu, như thế thì rượu trong chén cũng đã nhạt hơi và theo lời khuyên của các thầy thuốc bây giờ, đó chỉ là cách uống rượu dưỡng sinh. Nhưng kỳ lạ là khi Văn Cao uống rượu theo kiểu của ông với đám đàn em, thì cách rượu của ông không hề ngăn trở hay làm mất hứng bất cứ ai trong bàn rượu, dù đó là những anh chàng đang độ hảo hán coi vài ba chai sáu lăm như đồ bỏ, coi vài chục vại bia hơi như trò súc miệng. Cái nét đẹp ấy, bây giờ người ta hay gọi là "văn hoá" trong chiếu rượu của Văn Cao, là ông biết chờ bạn rượu, biết lắng nghe người khác nói, dù đó là những đứa em út, và khi tới lượt mình, thì biết nói những điều tâm huyết, biết kể chuyện đời một cách nhẹ nhàng, và tuyệt đối không khoe khoang. Nghe Văn Cao bên chén rượu nói chuyện hay kể chuyện rất thích, vì ta có cảm giác một không gian thân mật ấm cúng bao phủ cả chiếu rượu, len lách vào từng người uống rượu, và ngay khi nghe Văn Cao kể chuyện, thì những chuyện buồn, những chuyện đau đớn của ông vẫn lâng lâng. Người như thế không biết oán thù, không sâu hận, nhưng bao giờ cũng biết nhớ, nhớ một cách rõ ràng, chính xác từng chuyện một đã xảy ra với mình trong đời.


4. Vũ Hoàng Chương (1916 - 1976):
  
 Vũ Hoàng Chương sống ở Sài Gòn, từng được vinh danh thi bá ở Miền Nam. Thơ ông sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông phương.
Nhiều người nói, nhà thơ Vũ Hoàng Chương là "con sâu rượu", một thi sĩ nghiện ngập. Chúng ta luôn nhớ hai câu thơ này của ông:
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Ðời vắng em rồi say với ai!
Vũ Hoàng Chương được mệnh danh là "nhà thơ say". Không phải là cái say "không còn biết chi đời" như ông đã nói, mà chỉ là "gác mọi chuyện qua một bên để bay lên". Đọc "Thơ say", ta thấy men càng nồng. thơ càng bay. Vũ Hoàng Chương vẫn thèm khát "được say" đến cùng tận:
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta!
Cổ chưa khô, đầu chưa nặng, mắt chưa hoa
Tay mềm mại, bước còn chưa chếnh choáng
Chưa cuối xứ mê ly, chưa cùng trời phóng đãng
Còn chưa say hồn khát vẫn thèm men.
Nhờ hơi men mà ông làm được những bài thơ hay như thế!
(*3,4 : Kể theo Thanh Hải - Uống rượu với nghệ sĩ )


5. Bùi Giáng (1926 - 1998):

 
Bùi Giáng là một nhà thơ có kiến thức uyên bác, giỏi ba ngoại ngữ: Pháp, Anh, Đức, đã cho xuất bản trên 60 cuốn sách (14 tập thơ, 19 dịch phẩm, 6 sách giáo khoa và nhiều tập biên khảo triết học và thơ) và hiện còn 10 tập thơ và nhiều bản dịch chưa được công bố. Ông nổi tiếng trên văn đàn với lối thơ "xiêu đình đổ quán" mà ông có thể "nhẩm bút" cả chục bài liền trong quán rượu hay quán cà phê. Tên ông đã trở thành một huyền thoại văn chương. Ông xưng danh là Trung Niên Thi Sĩ, cùng hàng loạt biệt danh trào lộng khác. Suốt hơn bốn thập kỉ sống cuộc đời giang hồ, chân đất túi vải rong chơi mọi nẻo phố đường, nghêu ngao ca hát, làm thơ, vẽ tranh, ứng xử giữa (với) đời như một thiên tài và một kẻ khùng điên, thật khó mà phân biệt.
Đi đâu cũng vậy, bên mình Bùi thi sĩ cũng có một bầu rượu, một cái túi cói đựng đầy thơ và một cây bút để chép thơ khi có hứng. Ngày nào cũng đi, cứ 200 mét thì dừng lại uống mấy ngụm "rượu suông" rồi mới đi tiếp. Bùi Giáng "say" là để "tỉnh", say nhưng vẫn "đi làm" bình thường: Làm chim bay cò bay, làm cảnh sát giao thông ngoài phố.
Anh Nguyễn Thanh Hoài - người cháu từng sống gần gũi nhất với thi sĩ Bùi Giáng trong những năm tháng cuối đời ông tại căn nhà nằm trong một đường hẻm thuộc Q.Bình Thạnh, TP.HCM đã kể: "Sáng sớm, ông đơn độc ra đường, hễ uống xong ly cà phê là ông chuyển qua uống rượu và rong chơi khắp Sài Gòn bất kể mưa nắng. Ông đi bộ là chính, nhiều khi đi suốt ngày - nếu có về nhà cũng chỉ nghỉ chân một lát, sau đó lại tiếp tục ra khỏi nhà, là đà lãng đãng trên đường trong cơn nửa say nửa tỉnh. Khi nào về nhà, ông thường mang quà phân phát cho mấy cháu nhỏ trong nhà, cất những bài thơ đã làm, ăn qua loa vài miếng cơm, rồi... đi nữa! Nếp sinh hoạt đó cứ đều đặn lặp đi lặp lại cho đến khuya ông mới chịu dừng bước. Thông thường trước khi đi nghỉ, dầu nhâm nhi rượu trắng suốt ngày ông vẫn ngồi thiền khoảng một tiếng mới ngả lưng xuống giường. Còn như những lúc quá say thì "bạ đâu ông nằm đó", những lúc ấy gia đình phải ẵm ông vào phòng mới được."


6. Nguyên Hồng (1918 - 1982):
 
 Nguyên Hồng là người xuề xoà, ưa nhường nhịn người khác. Nhìn ông râu tóc lởm chởm, quần áo nâu nhàu nhĩ, ôm cái cặp căng phồng sờn trơ cả cốt, rảo bước trên hè phố, ai cũng tưởng đó là một lão nông về phố, một con người cũ kỹ của thời quá vãng xa xôi. Được gần ông, nghe ông nói, mới biết đó là nhà văn  Nguyên Hồng  nổi tiếng, với tâm hồn ông rộng mở, tươi mới lạ thường. Văn ông là kiếp người lầm than, thơ ông là giang sơn cẩm tú, anh hùng hào kiệt. Nhưng ông Nguyên Hồng đó thường xuyên uống rượu một mình ở nhà riêng, trên đường đi, hay nơi phòng làm việc . Rượu thường là loại xoàng, lơ lớ, nhàn nhạt, có thể mua ở bất kỳ quán nào. Mồi nhậu có thể là cái bánh mỳ khô, cơm nguội, hoặc sang hơn là thịt chó.
Có lần ông nói về tác dụng của rượu: "Có nhiều người rượu vào tính khí rất khác thường, vừa la ó, cáu máu, nổi nóng, đánh nhau, xấu tính, còn rượu của nhà văn thì phải khác, rượu của nhà văn thì phải có tiếng chim, có thiên thai, có nhiều nhân vật, có cái không gặp, không biết nhưng khi viết ra thì rất thật. Mình có gặp Năm Sài Gòn hồi nào đâu mà Năm Sài Gòn trong "Bỉ Vỏ" "vẫn sống".


7. Tô Hoài (1920...)
  
Bây giờ Tô Hoài đã ở tuổi 90, vẫn viết trên chiếc bàn cũ, vẫn sống đạm bạc ở phố Đoàn Nhữ Hài trong căn nhà mua bằng nhuận bút truyện "Vợ chồng A Phủ". Ông từng đi vài chục nước, xuất bản gần hai trăm đầu sách, nếm trải đủ mùi vị trong nghề.
Từ lúc qua tuổi 80,Tô Hoài đi đứng có hơi chậm, nhưng rượu vẫn đều đều, tửu lượng vẫn cao. Mỗi khi có "lộc" lại chiêu đãi bạn bè. Anh em trong giới cần, bác chi viện một cách vô tư "không hoàn lại". Nhiều lần đi lấy nhuận bút xong, Tô Hoài hay tìm đến ngôi nhà ở phố Nguyễn Thượng Hiền, đưa bạn ông, Nguyễn Văn Bổng đi uống bia. Khi ấy ông Bổng mắt đã kém, cứ đặt tay lên vai bạn, lẫm chẫm đi bộ ra quán uống, trò chuyện, rồi Tô Hoài lại đưa bạn về. Tật bệnh mà được thủ thỉ thế thì đến chết cũng không quên được. Ông chẳng giàu đâu, vừa qua một cuộc nhập viện 2008 "thập tử nhất sinh" phải cấp cứu ở Bệnh viện Việt Pháp, tốn đến hàng triệu đồng một ngày.
Trong bữa rượu, ông có thể uống ba thứ: bia, rượu vang rồi rượu nặng. Rất nhiều người trong bữa rượu chỉ uống được một thứ, uống hai ba thứ khác nhau rất dễ chết. Với ông, hai ba loại cũng vậy thôi, không thành vấn đề! Ông không uống nhâm nhi, uống theo kiểu Nga. Tô Hoài vào quán lặng lẽ kín đáo, gọi một vài chén vại, mỗi chén làm một hơi là ra đi. Rượu đế, rượu whisky, ông ực một cái, cạn ly, rồi chữa cháy bằng nước lọc. Càng uống càng tỉnh, vậy mới lạ, không bao giờ có chuyện "rượu vào lời ra". Không bao giờ ồn ào. Càng uống giọng càng nhỏ nhẹ, càng tinh tế với nụ cười duyên dáng.
Cụ thường lên Tây Bắc, lăn lộn với người Mông trên các đỉnh núi cao, cụ ăn mèn mén, uống rượu mèn. Vào Sài Gòn, được bạn cho uống rượu chuối hột vừa thơm vừa ngọt của Miền Tây, uống một lần, Tô Hoài rất thích, gặp bạn khoe: "Rượu chuối hột, hôm qua mình thấy mình cường tráng như thằng con trai!"
Với vốn sống ấy, Tô Hoài có lần kể  truyền thuyết về người đàn bà: Thời khai thiên lập địa, trần gian chỉ có đàn ông không có đàn bà, họ sống rất cô đơn - Họ cầu Chúa, Chúa dạy rút lại một cái be sườn của mình ra, thổi nó, chiếc be sườn biến thành đàn bà - Như vậy người đàn bà là một phần thân thể của người đàn ông.
Người Mông thì khác, ban đầu cũng chỉ có đàn ông, cô đơn quá. Một đêm người đàn ông nằm mơ thấy một người khác giới, người đàn bà - người đàn bà của giấc mơ biến thành người đàn bà cho đàn ông - Người đàn bà là người của giấc mơ mà thôi.
(*5,6: Nhiều chỗ kể theo Nguyễn Quang SángRượu với các nhà văn)


8. Hoàng Trung Thông (1925 - 1993):
1
Hoàng Trung Thông triền miên những cơn say. Không biết ông kết thân với rượu từ bao giờ. Ông đã dùng rượu như nhu cầu thường nhật. Rượu cũng làm cho hình ảnh của ông trở nên bé nhỏ, dị mọ đi trong con mắt của người đời, những ai không hiểu ông, không hiểu nhân tình thế thái trong cuộc đời. Có thể ông nhận biết được điều đó, ông nhận ra những gì mà rượu mang lại cho mình, nhưng đã trót say nhau rồi, ông không bỏ được, để rồi ông lại say nhiều hơn.
Bà vợ biết ông hay rượu, trong nhà bà bao giờ cũng chăm chút ngâm trữ nhiều loại rượu ngon để chiều chồng và đãi bạn của chồng. Kèm với rượu ngon là những thứ đồ giã rượu phòng khi chồng say. Khổ nỗi, Hoàng Trung Thông lại không thèm rượu ở nhà. Ông thèm đến nơi đông vui, đến nơi có bạn hữu thì thứ men say kia mới đủ sức quyến rũ làm cho ông thăng hoa. Ngót những năm dài, rượu đã trở thành gánh nặng cho vợ con ông, và trước tiên là bản thân ông. Nhiều khi ông không còn giữ được phong độ của mình, làm cho căn bệnh huyết áp của ông thêm trầm trọng.
Khi còn đang là Viện trưởng Viện Văn học, ông hay uống rượu ở 91 Bà Triệu. Bạn bè và nhân viên cũ của ông kể lại: Mỗi buổi sáng, ông thường đi sớm tạt qua 91 Bà Triệu uống rượu và trò chuyện với bè bạn trước khi đến cơ quan. Buổi chiều đã thấy ông ở đó.
Hoàng Trung Thông có thói quen uống rượu từ từ chậm rãi, dường như mượn rượu để trò chuyện nhiều hơn là uống rượu. Một ly rượu có thể kéo dài cả giờ đồng hồ, nếu gặp bạn chuyện. Ngày mới nghỉ hưu, ông thường đến cơ quan cũ. Những bạn bè yêu quý ông thường hay mời thủ trưởng cũ ra quán cóc đãi rượu. Có rượu vào, ông nói chuyện rất hay. Chuyện đông tây kim cổ, các tri thức uyên bác, bao nhiêu hiểu biết về tinh hoa văn hóa Trung Quốc, thơ Đường v.v... ông đều đem hết vào những tiệc rượu. Với những người vốn kiến văn không đủ để mê ông nói chuyện thường tìm cớ cáo lui ra về. Chỉ vài ba người hiểu ông, mê tri thức uyên bác của ông mới ở lại cùng ông cho đến phút cuối. Khi môi đã mềm, bàn chân đã bước đi không vững nữa ông mới chịu để anh em dìu về nhà.
( Kể theo Như Bình) 


9. Nguyễn Quang Sáng (1932...)

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng không còn sống trong căn nhà nhỏ trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa nữa. Gia đình ông dời về quận 7 (TP HCM) ở trong căn nhà đẹp, trồng cây sa kê thật lớn, có chiếc bàn trà ngoài hiên. Ông ngồi đó, uống trà Thái Nguyên, nhìn mưa rơi, mái tóc bạc trắng như ký ức. Vẫn tung tẩy nhậu...
Về quận 7, nhà ông phải đi qua sông, khu ấy xưa gọi ngoại thành, nay lại thuộc vùng "đất nóng" của đầu tư trong thành phố. Xưa ông mua miếng đất chỉ có căn nhà nát, cậu con trai cả là kiến trúc sư thiết kế, rồi xây thành căn biệt thự ba tầng lầu. Cậu con trai thứ hai mua xe hơi chạy đi làm, có cả gara rộng.
Cuộc sống của ông đã vào lúc thái bình. Không còn vất vả  như trước nữa. Về quận 7, xa trung tâm, gọi điện cho ông lúc nào cũng thấy ông ái ngại, đi xa lắm đó, có tới được không? Nhưng ông thì ngày nào cũng có lịch nhậu. Ông có một người bạn, ở cùng quận 7, làm quan chức ngân hàng, nên mỗi lần có lịch nhậu ông thường nói bạn chở xe hơi đi.
Còn không, ông gọi taxi tới. Ở tuổi của ông, nhậu như một thói quen bè bạn chứ không phải là để sát phạt, tạc thù. Nó như là một nhu cầu trong cơ thể, được gặp và trò chuyện, vậy thôi. Ông đi lại cũng không còn nhanh nhẹn như xưa.
Thế nên, cứ lên xe, kêu tài xế chạy tới địa chỉ, nhậu xong lại gọi taxi về, mất trăm ngàn nhưng mà nhàn thân, khỏi lo lắng mệt nhọc. Nhậu trong thành phố ông chỉ tới vài nơi quen.
Như quán 6A Trần Cao Vân chẳng hạn, ông thuộc từng mặt khách quen ở đó. Ông nói, quán đó không sang cũng chẳng hèn, không xô bồ mà cũng không quá nghiêm túc. Nó vừa vặn với ông. Vừa lai rai uống bia vừa coi đá banh, thấy cuộc sống nhẹ nhàng lắm.
Nhưng nhậu như Nguyễn Quang Sáng lại là nhậu ra công ra việc. Bạn bè ông, có những người là bạn đọc lâu năm thành bạn, đều là những người thành đạt. Trên bàn nhậu, biết bao công việc được nói, biết bao chuyện được kể, và từ đó nó hình thành nên những kế hoạch và công việc tiếp sau.
Nguyễn Quang Sáng uống rượu không bao giờ say. Chưa ai thấy ông trong tình trạng say bất tỉnh. Ông luôn biết được điểm dừng của mình. Và trước khi say mềm, ông luôn biết nói lời chào tạm biệt để tìm đường về nhà.
Có lẽ cuộc sống vất vả với người vợ bị đau ốm nhiều năm và ba đứa con nhỏ đã tập cho ông một thói quen như thế. Có lẽ chính vì điều ấy, mà dù ông có đi đâu và làm gì, gia đình ông vẫn giữ được sự ấm áp...
(Theo Nguyễn Khang)


10. Trịnh Công Sơn (1939 - 2001):
 
Trong giới văn nghệ sĩ VN, ai cũng biết Trịnh Công Sơn là một "tửu đồ" có thể sánh vai với nhà thơ rượu nổi tiếng Lý Bạch. Ông còn nổi tiếng về cái tài uống rượu "chay", tức là chỉ ngồi uống tì tì mà không cần ăn gì, không cần "phá mồi" (từ ngữ dân nhậu thường dùng để chỉ những kẻ uống thì ít mà... ăn thì nhiều). Giống như là thi sĩ Lý Bạch thường chỉ làm thơ trong những lúc túy lúy càn khôn, một phần không nhỏ tác phẩm Trịnh Công Sơn cũng được sáng tác ra trong những cơn say và một số bạn bè ông đã cho rằng trong một lúc say sưa nào đó thì Trịnh Công Sơn chứ không phải ai khác, mới là người hát nhạc Trịnh Công Sơn hay nhất. Sau này, thoát chết trong cơn bạo bệnh lần thứ nhất trở về, Trịnh Công Sơn đã từ bỏ rượu và đã thú nhận rằng ông đã gặp khó khăn trong sự sáng tác thời gian đầu khi bỏ rượu. 
Trả lời trong một cuộc phỏng vấn, Trịnh Công Sơn đã nói: "Trước đây, rượu là kẻ đồng hành với tôi trong cuộc sống. Không thể thiếu rượu được. Nó là chất xúc tác tốt để tôi làm việc. Uống để vui đời, chứ không uống để say. Uống thì ngòi bút trơn tru hơn, cọ vẽ bay bổng hơn và trí tưởng tượng được dịp trôi nổi về những bờ cõi ngẫu hứng lạ lẫm hơn. 
Giờ đây, tôi đang tạm thời xa rượu vì sức khỏe, tạm khất lại một thói quen đã cùng mình như hình với bóng trên những đoạn đường dài của sáng tạo. Tôi hy vọng là mọi việc cũng sẽ ổn thỏa thôi". Ta có thể thấy "rượu" bàng bạc trong từng lời nhạc của Trịnh Công Sơn. "Còn thấy gì sáng mai đây thôi ta còn bạn bè. Giọt rượu nào mãi chua cay trong tình vẫn u mê..." (Tình Xa), "Có ai đang về giữa đêm khuya, rượu tàn phai bước chân đi ơ hờ..." (Nghe những tàn phai), "Chén rượu cay, một đời tôi uống hoài, trả lại từng tin vui, cho nhân gian chờ đợi..." (Phôi pha), "Hôm nay ta say, ôm đời ngủ muộn, để sớm mai đây, lại tiếc xuân thì..." (Một cõi đi về), "Tiếng thì thầm từng đêm nhớ lại, ngỡ chỉ là cơn say..." (Như một lời chia tay). Có một chuyện ít ai biết là Trịnh Công Sơn nổi tiếng về uống rượu không chỉ trong nước mà còn ở cả nước ngoài nữa. Bằng chứng là hãng rượu nổi tiếng Martell đã mời Trịnh Công Sơn đến Pháp (họ chỉ mời những người nổi tiếng thôi) để nếm thử loại rượu quí được chưng cất và để dành lâu đến 65 năm (cả một đời người). 
Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài ký "Người Uống Rượu" đã viết : Vâng, tất cả âm nhạc của Sơn là nỗi buồn, và cái để chuyển tải nỗi buồn là ly rượu. Trong tiếng Hán Việt người ta thường dùng từ "giả" cho một số nghề nghiệp như tác giả, soạn giả, diễn giả, chứ ít ai dám phong "nhà" cho kẻ say giống như Lý Bạch. Nhà thơ vĩ đại đời Đường này đã cho rằng: "Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch./ Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh" Tạm dịch: Xưa nay các bậc thánh hiền đều yên lặng. Chỉ có người uống rượu là để lại tên tuổi. Như vậy Trịnh Công Sơn là một "ẩm giả" đích thực, như một nhà triết học hiện sinh chung tình với hiện hữu
(Sưu tầm)

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG TA

Tác giả: Nguyễn Đình Thi



Việt Nam đất nước ta ơi 
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn 
Cánh cò bay lả rập rờn 
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều 
Quê hương biết mấy thân yêu 
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau 
Mặt người vất vả in sâu 
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn 
Ðất nghèo nuôi những anh hùng 
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên 
Ðạp quân thù xuống đất đen 
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa. 
Việt Nam đất nắng chan hoà 
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh 
Mắt đen cô gái long lanh 
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung 
Ðất trăm nghề của trăm vùng 
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem 
Tay người như có phép tiên 
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ 
Nước bâng khuâng những bến đò 
Ðêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi 
Ðói nghèo nên phải chia ly 
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường 
Ta đi ta nhớ núi rừng 
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ 
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô 
Bát cơm rau muống quả cà giòn tan...





Việt nam đất quê hương tôi
Nhạc sĩ: Đỗ Nhuận
Ca sĩ: Trọng Tấn

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

QUÀ TÌNH NGHĨA

Tác giả: Thái Bá Tân
Không đau gì cụ thể mà bà cụ Thu cảm thấy mình đang ốm. Ốm thực sự. Toàn thân rời ra từng mảnh. Chân tay nặng như chì, cứ như có ai cố tình kéo bà quị xuống đất. Hay mình bị cảm? - bà tự hỏi rồi đưa tay sờ trán. Không nóng lắm. Chỉ thấy khó thở hơn ngày thường chút ít. Vốn xưa nay khỏe mạnh, bà lấy làm lạ rồi lên giường nằm, hy vọng sáng mai ngủ dậy sẽ khỏi. Bữa cơm tối vất vả lắm mới chuẩn bị xong vẫn để nguyên trên bàn.
Nhưng bà nằm mãi không sao ngủ được, đến quá nửa đêm thì thôi không cố ngủ nữa. Bà cảm thấy yếu và mệt mỏi hơn, sức lực mất dần một cách nhanh chóng. "Thế là đến lượt mình, bà thầm nghĩ, bình thản và không chút lo sợ. Gần tám mươi rồi, còn gì... Ai chả đến lúc phải nhắm mắt xuôi tay?" Rồi như làm theo cái ý vừa nghĩ, bà duỗi thẳng hai tay dọc theo người và từ từ nhắm mắt, đợi cái chết mà bà tin chắc đang rình rập đâu đó rất gần...
Như từ đám sương mù dày đặc, những mảnh vỡ cuộc đời dài đầy đau buồn của bà hiện dần lên một cách chậm chạp. Toàn những mảng nhòe màu xám lộn xộn, cái nọ dính cái kia. Xung quanh yên tĩnh lạ lùng. Bà nghe rõ tiếng đập yếu ớt của trái tim và hơi thở khó khăn của mình. Nhưng tiếng chân thần chết thì cố nghe mà mãi vẫn không thấy.
Bà cụ Thu là người nổi tiếng ở huyện trung du rộng lớn này, có thể toàn tỉnh. Ðơn giản vì bà là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng có năm người thân là liệt sĩ: Ông Thu, chồng bà, cộng với bốn con trai. Xưa nay bà luôn sống một mình, không con cháu, cũng chẳng còn ai thân thích, trừ một người bà con xa đằng chồng gọi bà là cô, hiện làm chủ tịch xã nơi bà đang sống. Có thể một phần vì thế mà bà được chính quyền địa phương chăm sóc chu đáo. Thậm chí chu đáo hơn mức cần thiết. Tiền trợ cấp chế độ hàng tháng quá thừa cho nhu cầu sinh hoạt giản dị của bà. Ðều đặn mỗi tuần một lần có người của xã ghé qua thăm hỏi đôi ba câu, đôi khi mang theo chút quà. Ðó là chỉ thị của đích thân ông chủ tịch huyện. Dẫu sao toàn tỉnh chỉ mình bà là Mẹ anh hùng của năm liệt sĩ.
Huyện ông hàng chục năm nay luôn dẫn đầu phong trào "đền ơn đáp nghĩa", và ông nhất quyết không chịu để danh hiệu cao quí này rơi vào tay huyện khác. Cũng theo chỉ thị của huyện, ngôi nhà xưa đằng chồng để lại, còn tốt, gỗ lim, mái ngói cong hẳn hoi, đã bị dỡ bỏ để xây thành mái bằng, y hệt các nhà tình nghĩa khác trong huyện. Bà Thu nài nỉ xin đừng, nhưng người ta nhất định không chịu. Ðể một người như bà không có nhà tình nghĩa thì chẳng khác gì làm nhục cả huyện! Lễ gắn biển cho ngôi nhà bất đắc dĩ ấy được tổ chức to lắm, đủ mặt quan khách, có cả mấy phóng viên truyền hình tỉnh về quay phim, viết bài. Tất nhiên nổi bật nhất là cảnh bà Thu tay cầm chìa khóa nói lời cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương. Họ bày cho bà cách tra khóa vào ổ, nói gì, đi đứng thế nào và nếu được thì cố khóc một tí.
Là đơn vị điển hình, hàng năm, ít ra đã mười năm nay, cứ đúng ngày thương binh liệt sĩ, huyện lại cho ô tô về tận làng đón bà ra thị trấn tham dự buổi lễ long trọng và nhận quà.
Cùng một Mẹ anh hùng khác, bà luôn được mời ngồi ở hàng ghế đầu, bên cạnh ông chủ tịch huyện, cao hơn và đối diện với cả hội trường. Bà nghe mà chẳng chú ý hoặc chẳng hiểu gì mấy những gì người ta đang nói. Chỉ thấy chốc chốc mọi con mắt lại hướng về bà, làm bà vừa ngượng, vừa chẳng biết nên xử sự thế nào. Rồi nhiều lần lặp đi lặp lại như vậy, bà cũng quen, cuối cùng thì chẳng có cảm giác gì khác ngoài việc coi đó là một nghi lễ bắt buộc.



Bà chỉ thực sự lúng túng khi đến phần tặng quà. Nhiều người được nhận quà - chiếc phong bì đựng ít tiền mặt, bộ quần áo hay một vật dụng nào đó, tùy ngân sách huyện năm ấy. Bao giờ cũng đích thân ông chủ tịch huyện trao quà cho bà và bà Mẹ anh hùng kia. Phần quà của họ cũng đặc biệt, luôn được đựng trong những chiếc hộp bìa cứng bọc giấy đỏ, buộc dây vàng. Bà được năm hộp, bà kia ba, tương ứng với số người thân đã chết. Tất nhiên người ta có thể cho vào một túi chứ không tách riêng cầu kỳ như vậy, nhưng ban tổ chức nghĩ ra cách này để nhấn mạnh sự hy sinh, tức là sự đóng góp của từng người cho cách mạng.
Bà còn nhớ hôm lần đầu nhận quà kiểu này. Bà được mời lên trước, hẳn vậy. Khi ông chủ tịch trịnh trọng lần lượt đặt từng chiếc hộp màu đỏ lên đôi tay đang chìa sẵn của bà, mọi con mắt đều hướng nhìn lên chăm chú. Có người còn lộ vẻ ghen tị. Ông chủ tịch huyện nói câu gì đó khá hùng hồn, rồi cả hội trường vang dậy tiếng vỗ tay hồi lâu. Bà chẳng hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Bà lúng túng đứng yên. Bỗng một ý nghĩ sắc nhói như mũi dao chạy xuyên qua tim: Bà đang nâng trên tay không phải năm hộp quà, mà là năm chiếc quan tài màu đỏ đựng xác chồng và bốn người con thân yêu của mình! Ý nghĩ ấy làm bà suýt ngã khuỵu. Mắt bà rưng rưng. Bà những muốn khóc, thậm chí khóc thật to. Ðôi tay trở nên thật nặng, phải cố lắm bà mới không để rơi những hộp quà. Không đợi mời, bà vội vã quay lại chỗ ngồi, nóng lòng chờ buổi lễ kết thúc. 
Ngay chiều hôm ấy bà cho gọi anh cháu chủ tịch xã tới.
- Anh có thể bảo họ thôi cái trò ấy được không?
- Trò gì cơ ạ, cháu không hiểu, - anh kia ngơ ngác hỏi lại. - Và họ là ai?
- Họ là mấy ông dưới huyện ấy. Còn cái trò là kiểu tặng tôi năm hộp quà như...như...- bà cụ chần chừ một chốc: - như năm chiếc quan tài! Giờ thì anh hiểu rồi chứ?
Anh chủ tịch hiểu. Anh đưa tay gãi gãi đầu, cố lựa lời:
- Cháu thấy chuyện ấy chẳng có gì không ổn. Chỉ tại cô nghĩ này nọ thêm rắc rối. Họ không gói thành một mà chia làm năm hộp như vậy là có ý đề cao thành tích... tức là gương hy sinh của cô. Ðể làm nổi bật cô với người khác...
- Tôi không thích kiểu đề cao như thế! - Bà cô khó chịu ngắt lời. - Tôi hỏi anh lần nữa: Anh có thể bảo họ thôi được không?
- Cháu sợ không. Cháu chỉ là cán bộ cấp xã. Vả lại, đó là nghi lễ, là chủ trương của trên. Ðâu người ta cũng làm vậy.
- Thôi được. Tôi nhờ anh việc khác vậy. Anh nói hộ với họ khi cho tôi quà, bảo người ta đừng vỗ tay hoan hô ầm lên thế. Hoan hô cái nhẽ gì cơ chứ? Vì tôi có chồng và bốn con trai đã chết? Cứ như tôi vinh dự lắm không bằng. Thế nào, anh giúp tôi điều này, hay cũng không nốt ?
Anh cháu bối rối, gãi tai còn lâu hơn.
- Cháu nghĩ không thể được, cô ạ. Người ta vỗ tay là để ca ngợi cô, một bà mẹ anh hùng, để... Anh bỗng ngừng lời vì thấy bà cô đang rưng rưng nước mắt.
- Anh thừa biết tôi anh hùng nỗi nào. - Bà hạ giọng nói. - Anh có thấy xưa nay ai khổ như tôi chưa? Thời gian tôi được ở cạnh ông Thu nhà anh tổng cộng có lẽ chưa đầy vài tháng. Từ ngày lấy nhau năm 46 đến lúc mất năm 54, ông ấy chỉ về thăm tôi bốn lần, để lại bốn người con trai một mình tôi nuôi. Rồi cả bốn đứa con ấy cũng lần lượt bỏ tôi mà đi. Tôi khổ thế sao người ta còn vỗ tay? Anh nói tôi nghe xem nào. Mà thôi, anh không giúp được thì tôi chẳng nhờ nữa. Anh về đi...
Buổi tối, bà dọn lại bàn thờ, đặt lên đó năm hộp quà thành một hàng thẳng. Chiếc ở giữa bà thắp ba nén hương, còn lại mỗi chiếc một nén. Các năm tiếp theo, cứ vào ngày 27 tháng Bảy, bàn thờ nhà bà lại có thêm năm hộp quà mới. Kích thước và trọng lượng có thể khác nhau, nhưng luôn được gói bằng giấy đỏ buộc dây vàng y như lần đầu. Và lần nào cũng vậy, đêm ấy bà không sao ngủ được, vì hễ nhắm mắt là hình ảnh năm hộp quà tình nghĩa như năm chiếc quan tài màu đỏ ấy lại hiện lên, đè nặng lên đôi tay và bộ ngực lép kẹp của bà, đến mức bà thấy nghẹt không thở được.
Bà lặng lẽ khóc cho cuộc đời đau khổ và trớ trêu của mình. Bà khóc cho chồng và bốn người con trai, cho cả ngôi nhà tổ tiên bị thẳng tay đạp phá. Bà oán giận các ông dưới huyện vì cái thói khoa trương thành tích của họ. Bà chẳng cần quà và sự chăm sóc của họ. Chẳng cần gì ngoài được sống cuộc đời một mụ đàn bà nông thôn bình thường, nghèo khổ và chẳng được ai chú ý, chẳng cần ai phong làm anh hùng. Một mụ đàn bà có chồng ở nhà cùng mụ cày cấy ngoài đồng, có uống rượu, có đánh đập mình cũng được, miễn đừng đi biền biệt như thế rồi chết, rồi để lại chừng ấy thằng con trai mà chẳng có đứa cháu nào. Thà như mụ Hựu hàng xóm còn sướng hơn - một đống con cháu, đứa nào cũng nheo nhóc, không nuôi nổi mụ lại thỉnh thoảng còn mò đến ăn bám. Nào mụ có gì đâu mà bám với víu. Tám mươi tuổi vẫn phải hàng ngày ra đồng Chùa mò cua bắt ốc lấy tiền đong gạo. Nghe nói nhiều khi quẫn quá, bà lão tội nghiệp ấy còn bắt trộm gà người ta làm thịt, hoặc làm những việc xấu xa tương tự. Mụ cứ than vãn mãi với mọi ngưòi rằng có độc đứa con trai đi bộ đội thì lại chết bệnh nên không được hưởng chế độ liệt sĩ.
- Bà sướng thật đấy. Những năm liệt sĩ! Có lần mụ bảo bà cụ Thu, vẻ thèm thuồng không giấu diếm.
Thực ra, lúc đầu bà cụ Thu chỉ được công nhận có bốn thân nhân liệt sĩ. Số là thằng út nhà bà, vốn không thuộc diện nhập ngũ, lại chưa đủ tuổi, vẫn cứ theo bạn nằng nặc đòi đi bộ đội, bà cố giữ không được. Thế mà chưa đầy ba tháng sau đang đêm nó lén lút trốn về nhà. Nó bảo trận địa pháo của nó bị máy bay ném bom chết nhiều quá, nó sợ nên bỏ trốn. Lúc ấy nó còn kém một tháng mới đầy mười bảy tuổi, vẫn là đứa con nít, tối hôm ấy vẫn chui vào nách mẹ ngủ như trước ngày lên đường. Nó xin bà đừng báo công an, để chờ ít hôm đỡ sợ, tự nó sẽ quay lại đơn vị. Bà ôm nó khóc, chẳng trách mắng, cũng chẳng báo ai đến bắt. Ðược hai hôm, đang đêm có người từ huyện về giải nó đi, lần này thì nó bị đưa tít vào tận Tây Nguyên và từ đó mất tăm luôn. Một năm sau, bà nhận được giấy báo tử của nó. Giấy báo tử thứ ba, không kể của ông Thu từ thời chống Pháp. Còn giấy thứ tư, của người con cả, thì mãi sau hòa bình mới nhận được. Có người nói với bà chính mụ Hựu báo công an bắt thằng út. Bà chẳng giận mụ chuyện ấy, chỉ buồn vì sau đó người ta đã làm khổ bà khá lâu vì tội dung túng người con đào ngũ.
Thời đó, hai tiếng này đáng sợ lắm. Thường thì sau chuyện ấy chẳng ai dám vác mặt đi đâu, nhưng bà cứ thản nhiên như không, càng khiến người ta nghĩ bà cố ý thách thức chính quyền. Thực ra bà không có ý ấy. Bà nghĩ suy cho cùng, con bà chẳng làm gì nên tội. Nó còn con nít, sợ quá thì bỏ trốn về nhà với mẹ ít ngày rồi quay lại. Nó chẳng nói thế đó sao? Cùng lắm, mắng một trận chứ đừng qui cho nó, và cả cho bà nữa, những tội tầy đình như vậy. Tuy nhiên, bà chẳng nói gì. Chẳng thanh minh, cũng chẳng oán trách. Sau những mất mát phải chịu, với bà, dường như không còn gì quan trọng. Sau này, lúc đầu bà còn không được đề nghị phong tặng danh hiệu Bà mẹ anh hùng. Người ta lập luận rằng với bốn người thân liệt sĩ và một kẻ đào ngũ, bà chỉ đáng gọi là mẹ liệt sĩ. Thậm chí người ta còn định không cho bà hưởng bất kỳ một chế độ nào.
Bà vẫn thản nhiên im lặng. Nhưng anh cháu thì không. Anh ta lẳng lặng kêu kiện khắp nơi. Rồi một hôm người ta mời bà xuống huyện dự lễ phong tặng anh hùng, với tờ giấy ghi rõ có chồng và ba con trai liệt sĩ. Một thời gian sau, đích thân ông chủ tịch huyện đem đến tận nhà một tờ giấy khác, bổ sung thêm một liệt sĩ nữa.
Lần này thì chính Huyện đứng ra lo liệu để thằng út con bà thành liệt sĩ. Trong hồ sơ quân nhân của nó, chữ đào ngũ được chữa thành tự ý bỏ về thăm nhà không xin phép . Bản thân cán bộ huyện rất cần con số năm hiếm hoi kia, và họ đã toại nguyện.
Cái nghi lễ tặng quà bất di bất dịch kia cũng được bắt đầu từ đó. Mỗi năm một lần lên huyện, người ta tặng, bà nhận. Năm hộp quà bọc giấy đỏ buộc dây vàng. Năm chiếc quan tài xinh xắn. Bà lặng lẽ ôm trên tay. Lặng lẽ chất cao lên bàn thờ. Rồi đêm đến lặng lẽ khóc. Phải mất mấy ngày sau bà mới bình thường trở lại, thấp thỏm lo sợ ngày tặng quà năm tới. Vâng, năm nào cũng vậy, trừ một lần.
Chuyện đó xẩy ra cách đây ba năm. Lúc bà vừa ngồi vào ghế danh dự, anh chủ tịch xã cháu bà (người luôn đi theo trong những dịp long trọng) ghé tai cho bà biết buổi lễ năm nay rất đặc biệt vì có khách nước ngoài, và bà nhất thiết phải phát biểu, phải cảm ơn...
- Cảm ơn vì chồng con tôi chết ?
- Ấy, cô lại thế rồi. Cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền và xã hội, tất nhiên. - Anh cháu chán nản đáp.
- Anh vừa nói khách nước ngoài là khách nào vậy?
- Mấy ông Mỹ cựu chiến binh. Trước đây họ đánh nhau với ta, bây giờ họ hối hận, sang giúp huyện ta xây lại cái công viên văn hóa. Cô hiểu chứ? - Thấy bà cô không nói gì, anh cháu yên tâm xuống chỗ ngồi của mình.
Ðúng lúc long trọng nhất, khi ông chủ tịch huyện vừa nói xong một thôi về hòa hợp, hữu nghị gì đó và cả hội trường cùng mấy ông tây đang vỗ tay hoan hô thì bà cụ Thu nhỏm dậy. Ông phó chủ tịch ngồi cạnh hỏi:
- Dạ, cụ định đi đâu ạ?
- Tôi ra ngoài một tý.
- Nhưng bây giờ thì không được, thưa cụ. Cụ thấy đấy, đang có khách... 
Bà vẫn một mực đứng dậy. Ông phó chủ tịch cố giữ. Bà phát cáu, nói to:
- Ô hay cái anh này. Tôi đi ỉa cũng không được sao? Hay anh muốn tôi tương ra ngay chỗ này ?
Duy nhất lần ấy bà ra về tay không, không bằng ô tô của huyện, mà bằng xe ngựa của thằng Nhơn xóm trên. Thằng này ngày nào cũng đánh xe chở rau quả ra thị trấn, buổi chiều đánh xe không về.
Tối đến, anh cháu mang năm hộp quà đến cho bà, nét mặt có vẻ khó chịu nhưng biết tính cô nên đành im. Bà cũng lờ như không có gì xẩy ra. Khi anh cháu về, bà vứt cả năm chiếc hộp ra vườn. Mụ Hựu nhanh tay nhặt chúng đưa vào nhà mình. Nghe đồn lần ấy quà giá trị lắm, nhờ tiền huyện bớt từ dự án xây công viên của cựu chiến binh Mỹ. Có thể thế thật, vì mụ Hựu tỏ ra rất hỉ hả, mua được cả áo mới. Mấy ngày liền mụ cố tình tránh gặp bà.
*
Ðêm yên tĩnh. Hình như trời sắp sáng, cũng có thể còn lâu. Chưa thấy con gà trống nhà bên gáy như thường lệ. Cũng có thể nó đã gáy mà bà không nghe. Bà không còn cảm biết điều gì, trừ một điều duy nhất là bà sắp chết, sắp được gặp chồng và bốn người con trai thân yêu của mình. Bà vẫn nằm yên bất động như khi mới lên giường để "nhắm mắt xuôi tay" như bà nghĩ. Ðôi tay khẳng khiu vẫn xuôi theo người, nhưng mắt bà luôn mở, trân trân nhìn lên trần nhà tối om.
Lúc này, hình như chút sức lực cuối cùng giúp bà không nhắm mắt cũng đang chầm chậm rời bỏ bà. Cuối cùng, đôi mi từ từ khép lại. Thay cho màu đen bóng tối, bà thấy khắp nơi đều một màu đỏ rực. Màu đỏ của những hộp quà, những chiếc quan tài giấy đỏ buộc dây vàng...

Mãi chập tối hôm sau người ta mới biết bà chết. Chính mụ Hựu thấy có điều khác thường, đến báo với anh chủ tịch xã cháu bà.
Khi thắp hương tiễn bà cô về thế giới bên kia, anh này ngạc nhiên thấy trên bàn thờ có rất nhiều những chiếc hộp màu đỏ bằng giấy hình chữ nhật. Những hộp quà tình nghĩa, anh biết. Anh chỉ ngón tay vào từng chiếc và nhẩm đếm. Tổng cộng 54 hộp. Tất cả đều còn nguyên dây cột và hồ dán. Do dự một lát, anh thận trọng mở chúng ra xem.
Phần lớn đó là những hộp bánh kẹo bây giờ đã hỏng. Không ít những tấm vải, có tấm còn mới nguyên, cũng có tấm đã phai màu hoặc bị mối xông. Một it hộp có cả tiền. Những tờ giấy bạc mới, phẳng phiu mà một thời rất có giá trị nhưng bây giờ chỉ đủ mua chưa đầy cân gạo, hay thậm chí chén nước trà... "Từ lúc được phong anh hùng và nhận quà của huyện đến nay đã mười hai năm", anh chủ tịch xã thầm nghĩ. "Vậy tổng cộng phải có 60 hộp, sao chỉ 54?" Rồi anh chợt nhớ chuyện xẩy ra với năm hộp quà lần có đoàn Mỹ đến thăm. "Vậy còn một hộp nữa đâu?" Anh cúi nhìn xuống chân bàn thờ nhưng không thấy. "Có thể bà cụ lẩn thẩn để rơi đâu đó. Cũng có thể chuột đánh mùi thấy thức ăn tha đi mất".
Những chiếc hộp giấy được dọn khỏi bàn thờ. Trên đó, như trên những bàn thờ bình thường khác, hương đang thong thả cháy, tỏa khói xanh và mùi thơm dìu dịu. Bà cụ Thu nằm bên cạnh, nét mặt thanh thản.

Hà Nội, 10. 12. 2000

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

NGƯỜI CON GÁI MẶC QUẦN,

Tác giả: Bùi Giáng













Người con gái mặc quần
Người con gái hôm nay mặc quần đỏ
vì hôm qua đã mặc chiếc quần đen
đen và đỏ là hai màu rồi đó
cũng như đời, đường hai nẻo xuống lên

Người con gái hôm nay mặc quần trắng
vì hôm qua đã mặc chiếc quần hồng
hồng và trắng là hai màu bẽn lẽn
cũng như núi và rừng đều rất mực chênh vênh

Người con gái hôm nay mặc quần tím
vì hôm qua đã mặc chiếc quần vàng
vàng và tím là hai màu mỉm miệng
mím môi cười và chúm chím nhe răng

Người con gái hôm nay mặc quần rách
vì hôm qua đã mặc chiếc quần lành
lành và rách đều vô cùng trong sạch
bởi vì là lành rách cũng long lanh.



 Anh lùa bò vào đồi sim trái chín
Anh lùa bò vào đồi sim trái chín
Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim
Anh nhìn lên trời xanh đỏ chín

Anh ngó bốn bề cây lá gió rung rinh



Anh nằm xuống để nhìn lên cho thỏa
Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh
Chim ngây ngất vào trong đôi mắt lả
Anh lim dim cho chết lịm hồn mình

Anh quên mất bò đương gặm cỏ
Anh chỉ nghe tiếng cọ rì rào
Có hay không? bò đương gặm đó?
Hay là đây tiếng gió thì thào?
Hay là đây tiếng suối lao xao
Giữa giòng cỏ xuôi ghềnh chảy xuống?

Mùi thoang thoảng lách lau sương đượm
Mùi gây gây gấy gấy của hương rừng
Mùi lên men phủ ngập mông lung
Không biết nữa mà cần chi biết nữa

Cây lá bốn bên song song từng lứa
Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn
Hạnh phúc trời với đất mang mang
Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ
Với người ngó ngất ngây đương nằm đó
Không biết trời đất có ngó mình không
(Vĩnh Trinh - Thạch Bàn 1950)

ĐẰNG SAU VAI DIỄN

Tác giả: Nguyễn Quang Quân  (Huy Nguyên)
My photo

1. Hồi còn công tác, có thời gian tôi phụ trách một Nhà Văn hóa cấp huyện. Khuôn viên Nhà Văn hóa huyện rất rộng, tòa nhà xây cất hiện đại, một hội trường với 600 ghế ngồi và 6 phòng làm việc với các thiết bị và tiện nghi sinh hoạt đầy đủ. Riêng tôi, ngoài phòng Giám đốc làm việc ở tầng trệt, còn có một phòng nghỉ ở trên lầu, có giường tủ đầy đủ để ngủ nghỉ lúc nào tùy ý. Công việc ở Nhà văn hóa thì nhàn, ngoài công tác nghiệp vụ không nhiều do các tổ chức năng thực hiện, thỉnh thoảng anh em phục vụ các đại hội, hội nghị, lễ lộc của Huyện ủy, Ủy ban huyện ở hội trường. Khi có các đoàn hát về mướn hội trường để diễn, anh em phải làm việc cả ngày lẫn đêm. Cực nhưng vui, vai trò cán bộ Nhà văn hóa lúc này trở nên quan trọng hơn, vì phải cùng với đoàn hát làm nhiệm vụ quản lý, tổ chức đêm biểu diễn, từ khâu phân phát giấy mời, bán vé, giữ gìn trật tự….Những lần như thế, về đêm tôi thường ở lại phòng nghỉ, vì các buổi biểu diễn tới khuya mới kết thúc, và sau đó tôi phải nhắc nhở, coi ngó việc dọn dẹp, thu xếp hậu trường.


2. Hôm đó, đoàn cải lương Sài Gòn  về biểu diễn vài buổi. Xe chở đoàn và tư trang về mấy chiếc xe tải lớn. Thường những lúc này, tôi cho dọn dẹp mấy phòng sinh hoạt câu lạc bộ, dành chỗ cho nhân viên của đoàn nghỉ tạm. Một số khác, thường các cặp vợ chồng, sau buổi diễn đem đồ ngủ lên tầng lầu hội trường, mắc võng hoặc trải chiếu ngủ cho thoải mái. Chỗ đó nằm trên lối đi về phòng nghỉ của tôi. Đêm diễn đầu tiên rất thành công, hội trường đông nghẹt, khán giả đứng choán các lối đi. Đông vui lắm và chúng tôi cũng mệt nhoài vì công việc. Như thường lệ, tối đó tôi ở lại, ngủ trong phòng nghỉ. Sáng hôm sau, tôi dậy sớm, rời phòng lúc 5 giờ, về nhà. Vừa mở cửa bước vào hội trường, tôi nghe tiếng rên rỉ nhè nhẹ, và trong ánh sáng nhờ nhờ của ngọn đèn bảo vệ từ ngoài hành lang chiếu vào, hiển hiện một cặp nam nữ đang ôm riết lấy nhau làm tình trong mùng, chăn phủ hở hang, chiếu ngủ xộc xệch trải tạm dọc hàng ghế. Góc bên kia, là một cặp đang còn chìm trong giấc nồng, bộ ngực người đàn bà phơi trần khá rõ. Cảnh tượng này cũng bình thường, nhiều lần tôi thoáng thấy khi các đoàn hát về diễn, tôi cứ làm lơ, đi qua họ, về lối cầu thang xuống dưới, mở cổng lấy xe ra về.
Thường buổi tối làm việc, sáng hôm sau, chỉ cần bảo vệ trực, bộ phận hành chính có mặt, các nhân viên khác có thể nghỉ bù, tuy nhiên vì nhà gần, tôi cũng đảo qua cơ quan lúc 9 giờ để kiểm tra và xử lý các công việc cần thiết. Ngồi ở sa lông trà nước khoảng nửa giờ, tôi ra khỏi phòng đi bách bộ kiểm tra qua tình hình khu vực. Đến góc sân sau, dưới tấm bạt che nắng, một cặp nam nữ - chắc là vợ chồng diễn viên đang lui cui nấu nướng. Anh chồng thì nhễ nhại mồ hôi chụm bếp, chị vợ thì ngồi trên khúc cây phe phẩy chiếc quạt. Thấy tôi đi qua, nhìn vào, họ nhoẻn miệng cười, gật đầu chào. Tôi thấy vậy ghé vào, cũng là để thăm hỏi xã giao.
- Sao anh chị không ra quán ăn cho tiện, giá cả ở đây rẻ lắm!
Anh chồng nhanh nhẩu nói:
- Anh thông cảm, vợ em không thích cơm nước hàng quán, nên tới đâu em cũng
đi chợ nấu ăn cho cô ấy!
Khuôn mặt anh ta trông quen quen. Họ có vẻ biết rõ vai trò của tôi ở đây. Bắt gặp cái nhìn chăm chú của tôi, anh này có vẻ bẽn lẽn, ấp úng nói:
- Xin lỗi giám đốc chuyện hồi sáng. Không ngờ giám đốc dậy sớm thế!
Tôi hơi ngớ người, nhưng hiểu ngay. Chắc là cặp hì hục sáng nay. Tôi lờ đi, như không biết, nói vui:
- Anh cũng giỏi đấy nhỉ? Anh chị là diễn viên à, đóng vai gì trong vở diễn lúc tối
vậy?
- Dạ, em đóng vai vua, còn cô ấy chỉ là nhân viên phục vụ của đoàn.
- À, tôi nhớ rồi, trong vở diễn có một ông vua oai nghi lẫm liệt đã ra lệnh giam
vào lãnh cung một bà thứ phi dám can thiệp vào việc triều chính. Nhưng sao vua  không đưa vợ xuống thành phố ở khách sạn, ăn nhà hàng, mà thổi nấu vất vả thế này?
- Em chỉ là diễn viên hạng ba thôi mà! Vai vua là dễ nhất, ai đóng chẳng được. Chỉ xuất hiện mươi phút, ngồi đó cho quần thần thưa thốt, nói mươi câu theo kịch bản có sẵn là xong. Tụi em hưởng lương công nhật, đâu có bao nhiêu. Chỉ có các diễn viên ngôi sao, lãnh thù lao cao mới ăn ở như thế. Tụi em thì sao dám với được!
Thường các đoàn ca kịch cải lương của Sài Gòn về tỉnh lẻ diễn, họ thu hút rất đông người xem là nhờ sự có mặt của các ngôi sao tên tuổi. Các nghệ sĩ tài danh này thường đi xe riêng, họ về nghỉ tại các khách sạn ở thành phố. Trước buổi diễn, họ đánh xe lên, hóa trang và bắt tay vào diễn ngay. Diễn xong, ra xe về lại khách sạn. Chỉ có các diễn viên hạng xoàng, các nhân viên phục vụ mới đi xe của đoàn, và trong thời gian lưu diễn họ đành ăn ngủ theo sự sắp xếp của đoàn và của địa phương. Anh bạn này cũng thế, trên sân khấu thì làm vua, nhưng xong vai diễn, anh trở về với đời thường khốn khó, cùng vợ ăn ngủ tạm bợ thế này. Vai chính trong vở diễn do các đào kép tài danh đảm nhận, thường là những con người với cuộc đời khốn khó, chịu nhiều đày ải, gian truân. Nhân vật chính chịu nhiều đau khổ theo số phận, bằng tài năng và bản lĩnh riêng, họ phấn đấu vượt lên phận số, tìm được cuộc đời tươi sáng, hoặc chìm lấp trong số phận đau thương. Tất cả tùy thuộc vào kịch bản của các soạn giả và bàn tay dàn dựng của đạo diễn. Trong tôi bỗng dưng nảy sinh một ý nghĩ, và tôi nói với anh bạn diễn viên:
- Giữa sân khấu và cuộc đời hình như có nghịch lý này. Các diễn viên đóng vai chính, trên sân khấu họ thể hiện những cuộc đời đau khổ, gian truân làm rơi nước mắt bao người, nhưng khi về với cuộc đời thực, họ là những người giàu sang, sung sướng. Còn những diễn viên như anh, trên sàn diễn là ông vua với quyền hành tuyệt đối, phú quý không ai bằng, nhưng rời sân khấu, anh về với cuộc sống khó khăn, khổ nghèo. Theo anh thì tại sao như vậy?
Anh chàng có vẻ lúng túng trước câu hỏi bất ngờ của tôi. Chị vợ lanh lẹ hơn, cướp lời chồng:
- Có gì mà khó hiểu, do tài năng chứ sao! Anh có tài mới thành nghệ sĩ ngôi sao, mọi người hâm mộ, được trả thù lao cao ngất, còn diễn viên tôm tép như chồng em, tài hèn sức mọn thì nhận lương thấp, thu nhập có khi không dủ ăn, cũng phải thôi!
Chị ấy nói đúng. Tài năng thì ở đâu cũng được trân trọng và người tài xứng đáng có thu nhập cao,  có quyền hưởng cuộc sống vật chất đủ đầy. Sân khấu diễn về cuộc đời, nhưng nếu cuộc đời như vở diễn thì buồn lắm, vì như thế cái giả dối lan tràn. Người nghệ sĩ lên sân khấu đóng vai, nhưng trở về với đời thường, họ phải sống thực như bao người khác. Nếu tiếp tục diễn, sẽ chắng ai tin, vì nó kệch cỡm, ngu ngốc, lố bịch làm sao! Tôi thấy buồn buồn với ý nghĩ ấy, nên đành dừng câu chuyện ở đây!
 20.9.13