Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

NĂM MỚI 2015-Ất mùi NĂM CON DÊ








Năm mùi nói chuyện dê
Những ngày xưa thân ái trên quê hương dù ở đâu chăng nửa, chắc hẳn không ai có thể quên được tiếng chim cu gù vang trong bụi cây vào những buổi trưa hè gay gắt, điệu sáo diều vi vu trong gió hòa lẫn từng hồi trống thu không dồn dập, báo hiệu chiếu tà, để bọn mục đồng kịp lùa trâu về chuồng trước khi trời tối. Rồi còn mái đình, cổng làng,lũy tre xanh, ao bèo, ngỏ xóm và vui nhộn nhất là tiếng kêu be be của đàn dê nhà vào mỗi buổi sáng. Bức tranh quê thật sống động, gây rạo rực hồn người, khi chứng kiến hoạt cảnh về hình ảnh của chú dê xồm, đang vểnh râu chờ đợi trước cổng chuồng, hinh mũi, ghết đầu,nghiêng cặp sừng dài về phiá sau, rất hiên ngang và oai phong lẫm liệt, càng làm nổi bật hàm râu của ' bác ' phất phơ trước gió sớm và sau đó với chiến thuật ' đánh nhanh đánh mạnh để tiến lên ... ' nên chỉ trong vòng vài phút, chàng đã làm tròn bổn phận với đám thê nhi thuộc quyền từ tơ, sồn sồn cho tới gái già, không bỏ sót một mạng. Tất cả rất thơ mộng và tình tứ, như hình đã hằn sâu trong tâm thức nhân gian khó làm ai quên được.
Là một con vật thân thuộc trong nhà, Dê được nuôi để lấy thịt , sữa và gần như tất cả các bộ phận trong cơ thể mà con người gọi là thuốc quý. Nhược điểm truyền kiếp của dòng họ nhà dê là mùi hôi và trên hết khả năng sinh lý thượng thừa của chàng dê đực, khiến cho các bà các cô ghét dê cay đắng. Tóm lại trong 12 con giáp, dê coi như không giống con nào, nên luôn là đầu đề của những mâu thuẩn, ghét thương, khiến cho nhiều nhà sinh vật học khi nghiên cứu con vật này cũng phải ngẩn ngơ,không biết sao mà kết luận.
Tuy nhiên có một việc mà ai cũng phải công nhận là dê bị người ngược đải và đối xử bất công. Điều này đã được thể hiện một cách rõ ràng trong ngôn ngữ VN, khi con dê được dùng làm đề tài để chỉ các chàng thích hảo ngọt, mỗi lần gặp đàn bà con gái , nhất là người đẹp , thì mắt chàng tròn xoe và lóng lánh như hai hòn bi, còn tay chân thì quơ quào múa may loạn xạ như con bạch tuộc. Ấy vậy mà người và con bạch tuộc thì chẳng hề hấn gì, còn dê vô cơ, vô duyên và chẳng hề đụng chạm tới ai, lại bị các bà các cô ghét bỏ thậm tệ, dù hầu hết mỗi lần đi chợ, ai cũng cố công tìm cho được thứ ngọc dương, về chưng thuốc bắc cho ' chàng ' xơi, để thêm tráng dương bổ thận.  Bên trời tây, dê cũng bị lăng nhục, qua các thành ngữ Anh-Mỹ, chẳng hạn như ' wear goatces ' dùng chỉ các chàng có râu cằm giống dê xồm, hay ' to get one's goat, really got my goat, getting another man's goat, don't look down, that what got my goat.. ' ' ' đều mang chung nghĩa bực mình, hằn học, gây chuyện. Nhưng nếu như thế thì quả thật là tréo cẳng ngỏng, vì ai cũng biết, ngay từ thời thượng cổ, từ Hy Lạp, Ấn Độ qua tới Trung Hoa, dê được dùng để tế thần, vật lễ trong ngày cốc sóc đầu năm, là thời gian nhà vua làm lịch năm mới cho cả nước :
' Dê vốn thật thuộc về việc lễđể hòng khi về hạng tư vănđể dành khi tế thánh tế thầnlại có thuở kỳ yên, kỳ phước..việc dê thì dê biết '(Lục súc tranh công)

Nên ta cũng đừng lạ gì về cuộc tranh luận giữa Đức Khổng và môn đệ Tử Cống, như Luận ngữ đã viết :' người nước Lỗ từ xưa có lệ mổ thịt dê đực làm lễ cốc sóc. Sau lễ ấy không còn nhưng lệ nộp dê vẫn tồn tại, nên Tử Cống muốn bỏ mà Khổng tử lại không chịu vì tiếc cái lễ.' Câu chuyện triết lý trên, chứng tỏ con dê đã đi vào tâm thức nhân loại rất sâu đậm và gắn bó vô vàn.

1-DÊ VÀ HỌ HÀNG BỘ BÒ :
Là con vật được loài người thuần dưỡng cách đây hơn hai vạn năm tại Trung Đông, Ấn Độ, sau đó mới tới Ai Cập các nưóc Phi Châu, phương Tây và Á Đông. Nhiều công trình khảo cổ cho thấy sự gắn bó giữa người và dê rất sớm, cho nên hình ảnh con dê được khắc trên các nông cụ, đồ binh khí dùng để săn bắn kể cả cán rìu, dao và các vách đá,hang động.. Có lẽ vì dê được nuôi trong nhà lại hiền lành, ích lợi nên người xưa đã chọn là một trong mưới hai con vật , làm đơn vị tính thời gian. Dê cùng họ hàng như cừu, linh dương và sơn dương.. thuộc Bộ Bò, được các nhà khoa học xếp vào bộ Artiodactila, có móng chẳn, nhai lại. Dê nhà là loài gia súc nhỏ, do sự kết hợp giữa dê rừng (Capra Aegagerus) và linh dương (Capra Falconeri). Dê ăn đủ mọi thứ cây cỏ nhưng món khoái khẩu nhất vẫn là lá so đủa và dâm dương hoắc, có tác dụng làm ham muốn tình dục. Đây là một nghi vấn có liên quan tới khả năng sinh lý thượng thừa của dê đực mà các nhà sinh vật học tới nay chỉ đoán mà chưa chứng minh được. Sừng dê rổng cong về phía sau, con đực có chòm lông cằm gióng như râu của người. Tất cả các loài dê và họ hàng đều có khả năng leo trèo và chạy nhảy trên các sườn núi, đèo dốc cheo leo rất giỏi mà con người dù có võ thuật cũng không đạt được.
Đây là khả năng sinh tồn mà Thượng Đế đã ban cho con vật hiền lành để trốn chạy trước các loài ác thú phải đối mặt hằng ngày. Tuổi thọ của dê từ 10-12 năm, mỗi lần trong năm con cái sinh hai lứa và thời gian mang thai là 150 ngày, con đực nặng chừng 60 ký còn con cái 50 kg khi được 6 tháng. Tánh tình dê ngang bướng, khó dạy nhưng không phải là loại ù ù ngớ ngẩn, ngược lại rất tinh khôn, biết nhà, biết chủ và làm được nhiều việc nếu người chủ không ngược đại chúng. Nhiều nước Trung Âu, Nam Mỹ , Ấn Độ đã dùng dê kéo xe và chăn chiên, canh giữ đàn cừu.
Thịt dê hiền, ngon, tất cả các bộ phận trong cơ thể đều ăn được nhưng quý nhất vẫn là bộ ngọc dương và bốn móng , được làm món tiềm thuốc bắc trong tứ linh hội, rất bổ dương, tráng thận. Dê nhà VN hiện gồm ba giống : dê bổn xứ không rõ xuất xứ, dê Ấn Độ do người Pháp và Ấn mang vào VN từ đầu thế kỷ XX và dê Mông Cổ mới nhập cư từ đầu thập niên 90. Về vóc dáng và trọng lượng, dê VN nhỏ hơn dê Ấn và Mông Cổ, hiện được nuôi để lấy lông dệt len làm mền và quần áo chống lạnh.. Ngoài ra còn có dê nhà lùn Camerun, dê sừng xoắn (Capra Folconeri) và dê núi (Capra Ibex Sibirica), tuy sống trên núi cao nhưng vẫn mang tập tính gần giống dê nhà.
Riêng loài tương cận với dê, có họ Cừu gồm Cừu bờm (Ammotragus Lervia) và cừu rừng (Ovis Musimon). Linh Dương (Oryx) thuộc nhóm móng chẳn, cùng họ với dê, cừu, hươu, nai.. sống trên các thảo nguyên Á,Phi, có tài nhịn uống nước nhiều ngày như lạc đà và sơn dương. Hiện có Linh dương Gazella, L inh dương ngựa, Linh dương Canna, Linh dương Ấn Độ, Linh dương Tía, Linh dương cao cổ.. tất cả đều là những loại thú quý hiếm hiện nay. Cuối cùng là Sơn Dương vốn được coi như tổ tiên của loài dê nhà, gồm có Sơn dương Gnou, sơn dương Salga, thịt sơn dương ngot và mềm nhưng quý nhất vẫn là huyết tươi giống như ngọc dương của dê nhà, chữa trị được nhiều chứng bệnh ngặt nghèo của con người. Mới đây tại rừng Vũ Quang, Hà Tĩnh (VN) mới phát hiện được ba loài thú quý hiếm thời tiền sử thuộc bộ dê là Nai Sửa hay Hoảng khổng lồ, Nai chạy chậm hay là Quang Khem và Sơn dương sừng dài , còn gọi là bò Vũ Quang hay là Sao La.

2-DÊ QUA CÁC MÓN ĂN:
Người xưa có nói ' ăn gì thì bổ nấy' như ngựa thì có pín và mã huyết tửu, cọp thì cao hổ cốt, rắn có rượu tam hay ngũ xà, gấu nổi danh với mật, khỉ thì có óc và dê cũng có món ngọc dương. Tại VN cũng như hầu hết các nước trên thế giới nhất là vùng Trung Đông, Ấn Độ, miền tây bắc Trung Hoa, Mông Cổ, Mãn Châu.. thịt dê là món ăn thông dụng và rất được ưa thích, đối với các dân tộc du mục. Do trên đã có rất nhiều món ăn được chế biến từ con dê như dê nướng, lẫu dê, tái dê, chả dê, dê nấu cary.. nhưng độc đáo nhất là món ngọc dương tiềm thuốc bắc. Ngoài ra trong dân gian còn truyền tụng món SƠN DƯƠNG TRÙNG của Từ Hy Thái Hậu đời Mãn Thanh và mới đây có món Tứ Linh Hội tại Sài Gòn và Cần Thơ VN.
+ NGỌC DƯƠNG TIỀM THUỐC BẮC:
Món quý này làm không khó nhưng khó ở chổ là làm sao có bộ Ngọc Dương để xài, vì trong đàn dê nhà phần lớn đều là dê cái. Ngọc dương tiềm thuốc bắc trị bệnh suy yếu và bổ thận cho nam giới. Cũng theo quan niệm ăn gì bổ nấy, người ta dùng Dương Nhục, có vị ngọt nhưng ăn vào làm cơ thể nóng lên, rất bổ ích cả nam lẫn nử nhất là những người đang sinh nở vì thịt dê có tác dụng trợ dương, bổ huyết, trị các bệnh ho suyển. Dương can tốt cho mắt, dạ dầy trị bệnh ói mửa, gầy ốm còn Dương tiết pha với rượu uống hằng ngày trị được bệnh choáng váng, nhưc đầu và đau lưng. Ngoài ra trong các hiệu thuốc bắc có bán Cao dương chữa bệnh còi thiếu máu và Dương nhục thang giúp phụ nử hồi sức.
+ TỨ LINH HỘI :
Vào thời vua Khang Hy nhà Mãn Thanh, đã thấy xuất hiện các món gà vịt tiêm thuốc bắc hằng ngày trong hoàng cung và nơi bàn ăn của các vị quan lớn và giới thượng lưu phú gia. Nhưng phải đợi tới khi Từ Hy thái hậu lên nắm quyền, thì món ăn trên qua cái tên ' Long Lân Qui Phụng' mới hoàn mỹ và đạt tới đỉnh cao. Tại VN ngay từ thời Pháp thuộc, nơi các thành phố lớn Hà Nội, Huế, Hải Phòng và nhất là Sài Gòn ố Chợ Lớn, trong các đại tửu lầu nổi tiếng của người Hoa như Đồng Khánh, Đại La Thiên.. cũng đã có món Long-Lân-Qui-Phụng tiềm thuốc bắc, được chế biến từ thịt Rắn-Mèo-Rùa-Gà.
Trong thiên đường xã nghĩa Việt-Cộng, từ năm 1982 tại nhà hàng Vĩnh Phát của Mạch Phú Cương ở Cần Thơ có bán món Long Lân Qui Phung tiềm thuốc bắc gọi là Tứ Linh Hội, gồm có Ngọc Dương, Rắn Rùa và Gà Ác. Về phẩm chất có sự khác biệt, vì ngày xưa món ăn được chưng cách thủy trong thời gian ba giờ nhưng bây giờ thì nấu trực tiếp với lửa điện hay lò gaz chỉ trong 30 phút, nên giảm nhiều bổ dưởng. Có thể quan sát nước trong hay là đục thì biết được cách nấu.
+ SƠN DƯƠNG TRÙNG CỦA TỪ HY THÁI HẬU
Đây la một trong những sơn hào mỹ vị gọi chung là thập trân mà Từ Hy thái hậu bày ra để đãi các sứ thần Tây Phương và Nhật Bổn vào năm 1874 tại Bắc Kinh. Muốn thực hiện món trên, các thợ săn tại tỉnh Hồ Bắc (Tàu), sau gần cả tháng trời lặn lội trong rừng sâu núi thẳm để săn bắt cho đủ sáu con Sơn Dương đang có thai trong vùng núi cao ở Thiên Tân. Dê núi đem về được chăm sóc cẩn thận hằng ngày bằng một loại cỏ quý có tên là ' Đông trùng Hạ thảo' chỉ mọc trong miền núi Vân Nam và Quý Châu mà thôi. Loại cỏ này có tác dụng bồi bổ gan và thận con người, về mùa hạ thì mịn màng , tới mùa đông trên ngọn cỏ xuất hiện một loại sâu dâu tổ kén, ăn rất bổ.
Dê ăn loại cỏ quý trên nên rất mập mạp và sinh con cũng khác thường. Trong đàn dê con chọn 14 con khoẻ mạnh khi được 2 tháng, đem làm sạch lông, moi bỏ ruột, sau đó ngâm chúng vào các thùng gổ to trong một hổn hợp nước gừng và rượu quý. Qua ngày thứ hai, vớt dê đem ngâm tiếp trong bể sứ tráng men, chứa hổn hợp sưa dêƯ tươi và nước sâm nhung. Được hai ngày đêm, người ta dùng hoa sen trắng đã được tách nhánh , dùng kim vàng xuyên từ hoa xuống tới cuống sen, rồi đem cắm đầy trên mình 14 con dê ngâm trong bể sứ. Để như vậy đúng 10 ngày, từ trong cơ thể dê, xuất hiện đầy những con trùng trắng bò trên hoa sen, được đầu bếp thu nhặt và chế biến thành món thập trân 'Sơn dương trùng' ngon bổ, trị được các bệnh lao phổi, tê liệt, bán thân bất toại và bất lực.

3-DÊ TRONG VĂN CHƯƠNG VÀ ĐIỂN TÍCH :
Trong kho tàng văn chương của thế giới qua nhiều thời đại, từ Âu sang Á, cả Trung Hoa lẫn VN, đã tìm thấy nhiều áng văn chương nói về Dê dưới mọi hình thức như truyện cổ tích ' Công Chúa lấy Chồng Dê' trong tuyệt tác phẩm ' Nghìn lẽ một đêm', truyện ' Con Dê Sáng ; của Ấn Độ, truyện ' Dê và Sói ' của A Phú Hản, truyện ' Dê và lũ sói ' của Pháp.. nhưng lý thú nhất vẫn là truyện ngụ ngôn VN ' Lục súc tranh công ' của một tác giả vô danh , thuật lại cuộc đấu trí đầy lý thú giữa sáu con vật thân thương trong nhà là Trâu, Ngựa, Chó, Heo, Gà và Dê. Nói một cách tổng quát, tác phẩm Lục Súc tranh công ngụ ý mượn sự tranh tụng của các con vật , để nói lên tâm lý ích kỷ và chủ quan của con người, trong sự chung đụng hay hợp tác hằng ngày, lúc nào cũng cho là ta giỏi và làm nhiều hơn kẻ khác, cho nên không thấy được những sai trái của mình, cho tới khi được người khác nhắc khéo, mới biết mình sai như trong đoạn :
' Dê nghe ngựa nói dê quá tệ,liền chạy ra vác mặt vênh râuDê nói rằng :" ta đọ với nhau "thử Anh lớn hay là tôi lớnMạnh thì lo việc nước việc vuaSong chớ khá cậy tài, cậy tướngAi có tài chủ ban chủ thưởngAi không công tay làm hàm nhai.."

Theo đó công việc của dê thật bình thường, không ai nhận thấy ngoài người chủ nuôi, gần giống như Bộ Lễ trông coi cả việc cúng tế, học hành, giáo dục, giúp vua trị nước.. quan trọng như vậy nhưng có mấy ai biết ?
Bên cạnh đó, trong dòng thơ quốc cấm thời Pháp thuộc (1884-1954), đã xuất hiện nhiều bài thơ nổi tiếng khuyết danh, mượn hình ảnh con dê trắng để chỉ giặc Pháp trong bài " Khu Bạch Dương Ca", hay mượn hình ảnh Tô Vũ, một đại quan thời Hán Vũ Đế, đi xứ Thuyền Vu bị bắt chăn dê trong mười mấy năm dài nơi miền quan tái, phản ảnh tâm trạng chung của Sĩ Phu VN khi quốc phá, gia vong , hay trong bài " Con Dê " chê biếm bọn tiểu nhân vì danh lợi, cam tâm làm tôi tớ cho giặc . Riêng cụ Trạng Trình theo truyền thuyết có để lại nhiều sấm ký có liên quan tới năm mùi, nhưng vui nhất là huyền thoại bài thơ " Dê cỏn buồn sừng " nói là của Hồ xuân Hương làm để trêu chọc bọn bạch diện thư sinh dốt nát mà lúc nào cũng muốn làm cha thiên hạ, cứ phê bình thơ với thẩn dù thơ của mình chẳng là gì :
'Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơLại đây cho chị dạy làm thơOng non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc dậu thưa .'

+ DÊ TRONG THÀNH NGỮ VÀ ĐIỂN TÍCH :
Người nước Lỗ thời Đông Châu Liệt Quốc, có lệ phải mổ thịt dê đực để làm lễ Cốc Sóc, nhằm ngày Nguyển Đán. Lễ này về sau bị bãi bỏ nhưng dân chúng vẫn theo lệ củ mà nộp dê cho Triều đình. Câu chuyện bàn cải giữa Đức Khổng và môn đệ Tử Cống trong Luận Ngữ, quanh vụ Dê tế lễ,sự người Trung Hoa và VN giết trâu bò, dê để tế cờ khi xuất trận hay việc người cổ Hy Lạp dùng thịt dê để cúng tế thần Hecmet, đã nói lên sự linh thiêng và quan trọng của con vật này, nên không lạ lắm khi thấy hình bóng Dê xuất hiện rất nhiều qua các thành tích, điển tích và ngay trong thành ngữ Pháp, Anh,Mỹ..
- DƯƠNG TRƯỜNG : mượn nghĩa đen là Ruột Dê để nói lên sự khó khăn khổ nhục của đường đời ' lần theo nẽo tắt dương trường '
- DƯƠNG CHẤT HỔ BÌ : Ngoài da là con cọp, con hùm nhưng thực chất bên trong là con dê, ám chỉ bọn tiểu nhân thượng đội hạ đạp, bên ngoài thì luôn dương oai hùm, khoe nanh hổ hiếp đáp dân lành yếu đuối, nhưng đối với quan lớn và kẻ mạnh thì khiếp nhược hèn mọn như con dê.
- DƯƠNG THẠCH : Dê hóa đá, rút từ điển tích Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán , bị con cháu nhà Hán là Lưu Diễn và Lưu Tú nổi lên chống lại nhưng vì binh yếu thế cô, nên bị quân cuả Mãng vây ngặt trong thành Côn Dương. Lúc đó, để thưởng công và khích lệ quân sĩ của mình, Mãng cho tải tới thành mấy ngàn con dê khao thưởng ba quân nhưng không ngờ số dê trên khi tới nơi đã hóa hết thành đá. Nhờ đó quân tướng của Mãng bỏ theo Lưu Tú , cuối cùng khôi phục lại được cơ nghiệp tổ tiên, gọi là nhà Đông Hán vì dời đô từ Hàm Dương về Lạc Dương tỉnh Hà Nam.
- DƯƠNG XA : Xe do dê kéo, rút từ điển tích vua Tấn Võ Đế có quá nhiều cung tần mỹ nữ, không biết chọn ai, nên hằng đêm ngồi trên một chiếc xe khảm vàng ngọc do đàn dê kéo đi khắp các cung và theo ý đàn dê ngừng ở cung nào thì vua nghĩ đêm ở nơi đó. Để dụ đàn dê, các cung nữ lấy lá dâu cắm ngoài cửa, đồng thời muối rắc lối đi đẻ dê đánh mùi muối, nhìn thấy lá dâu kéo xe vào cung. Trong ' Cung Oán ngâm khúc ' của Nguyễn Gia Thiều có viết ' Dấu dương xa, lối cũ quanh co ' là mượn từ điển tích trên.
- NGŨ DƯƠNG BÌ : Chuyện năm tấm da dê, lấy từ tích Bá Lý Hề người nước Ngu thời Đông Chu Liệt Quốc, ba mươi mốt tuổi mới cưới vợ sanh được một trai. Có tài nhưng quá nghèo nên không có tiền đê lo lót tiến cử,nên không làm được gì nơi bản quốc, vợ là Đổ Thị biết ý khuyên chồng đi xa lập thân. Nhà nghèo, ngày tiển chồng, Đổ Thị làm thịt con gà duy nhất và dùng cánh cửa để làm củi đun bếp. Bôn ba khắp nơi hơn 10 năm, rốt cục Hề vẫn trắng tay đến đổi phải chăn trâu để kiếm sống. Thất vọng ông trở về nước Ngu tìm vợ con thì không còn, sau nhờ bạn tốt là Kiển Thức giới thiệu, nên được làm quan Trung Đại Phu. Rồi Tần đánh Ngu, cả nhà vua và Bá Lý Hề đều bị bắt làm tù binh. Tại Tần, Hề bị kẻ gian hãm hại nên phải bỏ trốn sang nước Sở và bị vua nước này bắt đi chăn ngựa tại Nam Hải. Về sau vua Tần Mục Công biết Bá Lý Hề là người hiền, nên tìm cách cứu về nước và phong chức Thượng Khanh Đại Tướng , còn gọi là Ngũ Cổ Thượng Khanh, vì vua Tần dùng năm tấm da dê đổi ông về. Từ đó Bá Lý Hề nắm quyền chính nước Tần , trong khi vợ là Đổ Thị cùng con vì nghèo đói phải lưu lạc tới đất Tần làm nghề giặt đồ mướn để nuôi thân . Sau biết được tin chồng hiện làm quan cao tuyệt đỉnh, Đổ Thị tìm cách gặp và vợ chồng con cái lại trùng phùng, nhờ bài ca đứt ruột do bà sáng tác :' Bá Lý Hề, năm bộ da dê ".
- THUẬN THỦ KHIÊN DƯƠNG : Là kế thứ 31 trong tam thập lục kế của chiến pháp Trung Hoa xưa, có nghĩa là thuận tay dắt con dê về. Thành ngữ ám chỉ chuyện đời thật thiên biến vạn hóa, không biết đâu mà lường được, cho nên phải biết nắm lấy thời cơ để tiên hạ thủ vi cường. Điển tích dựa vào câu chuyện Thôi Trữ thí Tề Trang Công thời Xuân Thu, vì vua này có manh tâm muốn chiếm dọat ái thê của Trữ là nàng Đường Khương. Để trừ khử tên hôn quân, Trữ giã bệnh và dùng vợ làm mồi dụ vua tới nhà mình, rồi phục binh giết chết. Tóm lại Vua Trang Công vì quá tự tin, đặt mình vào hoàn cảnh bơ vơ của con dê bên đường, để cho Thôi Trữ dể dàng dắt về nhà làm thịt.
- DÊ KỲ LỘ : Câu chuyện mất dê của người láng giềng Dương Chu. không tìm được vì đường có quá nhiều ngã rẽ. Đây là một câu chuyện mang tính chất triết lý cao siêu trong nền triết học Trung Quốc., chủ ý nói về chuyện học đạo, nếu ta cứ chú trọng phần tiểu tiết, thì chẳng khác gì người mất dê trước quá nhiều ngã rẽ, không biết con dê đã đi về hướng nào. Câu chuyện có liên quan tới Dương Chu, là một triết gia trước Lão Tử, ông chủ trương thuyết Vị Ngã, theo đó chỉ biết có mình mà thôi, nên nếu chỉ nhổ một sơi lông chân mà có lợi cho thiên hạ cũng không làm. Sau buổi tìm dê cho người láng giềng, Dương Chu đốn ngộ, bỏ thuyết vị ngã không theo nữa. Trong hoài cổ ngâm có câu :' Tái Ông được ngựa, lộ kỳ mất dê '.
- DỮ HỒ, MƯU BÌ : Vào đời Chu, có người muốn bày đại tiệc toàn thịt dê nhưng không biết làm sao cho đủ thịt. Sau khi suy nghĩ, ông ta tìm đến đàn dê thương lượng , muốn xin cắt thịt chúng, đàn dê nghe qua sợ quá bỏ trốn hết. Một lần khác cũng người này, muốn có một chiếc áo bằng da chồn nhưng không biết làm sao có da để mat. Sau khi suy nghĩ, ông ta tìm đến chồn thương lương, muớn được lột da chúng, bọn chồn nghe qua sợ quá, cũng bỏ trốn hết. Câu chuyện ngụ ngôn trên trích từ sách Phù Tử, nói về một sự việc nào đó, quá sức mình không thể làm được thì đừng làm, kẻo gây tiếng đời mai mĩa, chê cười.
- VỌNG DƯƠNG BỔ LAO : Ý nói mất dê mói chịu làm chuồng , thành ngữ rút ra trong chiến quốc sữ, đời Sở Tương Công thời Chiến Quốc, vì quá tin dùng bọn xu nịnh nên không chịu nghe lời quan đại thần Trang Tân, nên cuối cùng bị mất nước về nhà Tần. Nhà vua chạy trốn sang Trịnh và nhờ Trang Tân giúp lấy lại sơn hà, nhưng ông ta nói :" thấy thỏ chết mới nghĩ tới chó săn vẫn chưa muộn nhưng thấy dê chạy mất mới lo sữa lại chuồng , thì quá muộn rồi ".
Và sau cùng là câu chuyện người bán thịt dê nước Sở , đã thẳng thắn từ chối tất cả những bổng lộc và chức tước của vua ban, vì thấy mình chẳng có công trạng gì với nước non và dân tộc. Nụ cười của Thánh Nhân thật là thâm trầm và minh triết, qua những lời đối đáp giữa Chúa Tôi nước Sở, làm cho người sau ray rứt không yên :
" Trước vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay nhà vua lấy lại nước, tôi có lại nghề bán thịt dê của tổ tiên, đủ ăn đủ mặc, vậy là mãn nguyện rồi. "
Hay khi vua muốn tới thăm, người bán thịt vội nói :" theo phép nước, kẻ có công được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay xét tôi, giặc vào nước tôi bỏ chạy giữ mạng chứ đâu phải vì nước. Nay vua bỏ phép nước mà phong thưởng hay tới thăm nhà kẻ không công, thiên hạ biết được sẽ cười ".
Người đời nay trong cõi phù du, được mấy ai như người bán thịt dê ?




Con dê trong thơ ca

VIỆT CHUNG Trong 12 con giáp, con dê (Mùi còn gọi là Vị) là con vật đứng vào hàng thứ 8, trước khỉ và sau ngựa. Dê tên chữ là Dương.Dê vốn là con vật miền núi, được thuần hoá nên có thể nuôi trong nhà. Hình ảnh con dê gây được những ấn tượng với người đời một cách khó quên. Đặc biệt của loài dê là dê đực hoặc dê cái đều có râu và có sừng, bản chất hiền lành và tràn đầy sinh lực.
Con dê trong thơ ca
Ai sinh vào năm dê đều mang tuổi Mùi. Đây là hình ảnh một cụ dê:
                        Tuổi Mùi là con dê chà
                        Có sừng, có gạc, râu ra um sùm.
                                                            
(Vè 12 con giáp)
Tuổi Mùi là tuổi tốt, dù mang tiếng là dê, nhưng dê dựng vợ, gả chồng theo các ông thầy lý số. Do đó, tuổi Mùi ai cũng thích, nhưng tánh dê thì không ưa:
                        Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi
                        Em đây luống những ngậm ngùi tuổi Thân.
                                                            
(Ca dao)

Người ta ăn thịt dê quanh năm, nhưng tết đến xuân về, món dê cũng được chọn là một thực đơn quí. Thịt dê làm được nhiều món ngon và bổ không thua gì thịt bò, thịt heo.
Tuy đứng sau con ngựa, nhưng con dê cũng biểu tượng sự sung túc, mang nhiều sức sống sung mãn, đem lại cho người đời sự ấm no, hạnh phúc:
                        Năm Ngọ, mã đáo thành công
                        Năm Mùi, dê béo, rượu nồng phủ phê
                                                            
(Vè miền quê)

Dê béo là dê thịt ngon nhất, một món ăn khá hấp dẫn được kể một trong ba cái thú vị mà con người ca ngợi, không ai là không thèm khi nói đến. Tuy nó thiên về vật chất quá, nhưng cũng là người trần mắt thịt, chớ có ai là Tiên, là Phật đâu:
                        Thế gian, ba sự khôn chừa
                        Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ.
                                                            
(Ca dao)
Người ta cũng thường liên hệ giữa con dê và người có máu dê. Bà con thường chỉ trích và cảnh cáo những kẻ già đa tình hay sàm sỡ một cách bừa bãi, có ngày gặp tai nạn:
                        Dê sồm ăn lá khổ qua
                        Ăn nhiều sâu rọm, chết cha dê xồm.
                                                            
(Vè)
Thói dê của bọn tình ái lung tung hoang tàng bị người đời nguyền rủa khá nặng nề.
                        Phụng hoàng đậu nhánh sa kê
                        Ông thần không vật mấy thằng dê cho rồi.
                                                            
(Ca dao)
Dê nuôi để ăn thịt và lấy sữa. Ngoài ra, người ta còn dùng dê để kéo xe thay cho ngựa và trâu bò. Dê kéo xe, thì những ai đọc tập thơ "Cung oán ngâm khúc" của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều, đều nhớ đến những câu:
                        Phải duyên hương lửa cùng nhau
                        Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào...
                                                            
(Cung oán ngâm khúc)

Do điển tích vua Tấn Võ đế (Trung Quốc) thường dùng xe dê kéo đi mỗi đêm trong cung cấm, hễ dê dừng ở cửa phòng cung phi nào tức đêm ấy nhà vua sẽ ngủ với cung phi đó. Nên hàng trăm cung phi mỗi đêm tìm lá dâu non (loại dê háu ăn) đặt trước cửa phòng để xe dê dừng lại. Nhưng không được vua đến tìm thú vui, thì người cung nữ cảm thấy cô đơn lạnh lẽo:
                        Thâm khuê vắng ngắt như tờ
                        Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo.
                        Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ
                        Dấu dương xa (xe dê) đám cỏ quanh co.
                                                            
(Cung oán ngâm khúc)

Trong thơ "Lục Vân Tiên", cụ Nguyễn Đình Chiểu có tả lúc nàng Kiều Nguyệt Nga trên đường quanh co, khúc khuỷu đến phủ đường của Kiều công:
                        Trải qua dấu thỏ đường dê
                        Chim kêu, vượn hú bốn bề núi cao.
                                                            
(Lục Vân Tiên)
Đoạn quan trạng Lục Vân Tiên "vinh qui bái tổ" gặp lại Nguyệt Nga, giữa lúc mọi người tổ chức vui mừng hạnh phúc của đôi trai tài gái sắc, thì lúc đó bộ mặt của Bùi Kiệm đã từng "dê" Nguyệt Nga, trở thành trơ trẽn:
                        Còn người Bùi Kiệm máu dê
                        Ngồi chai bộ mặt như giề thịt trâu.
                                                            
(Lục Vân Tiên)

Trong dân gian, từ dê đã biến dạng thành de. Chữ de gốc từ dê mà thôi. Nó làm cho ngôn ngữ thêm vô cùng phong phú, trữ tình:
                        Bắp non mà nướng lửa lò
                        Đố ai de được con đò Thủ Thiêm.
                                                            
(Ca dao)
De tức là gần gũi o bế, tạo hiểu biết kích thích cho nhau. Dê là thuộc tính của đàn ông, trái lại đàn bà cũng biết dê đấy chứ, nhưng không bạo dạn như đàn ông.Chữ de vào ca dao, nó khá hay vừa tượng hình, vừa tượng thanh, đầy sức quyến rũ:
                        Cam sành lột vỏ còn the
                        Thấy em còn nhỏ anh de để dành.
                                                            
(Ca dao)

Bản chất của cam sành là ngon ngọt, là bổ dưỡng, chất quí trên đời. Còn chữ "de để dành" có duyên không chê vào đâu được!
Dê con trông rất dễ thương, thường chạy giỡn hồn nhiên, nhưng nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã một lần chê lũ dê này:
                        Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
                        Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.
Trong nghề điêu khắc, ca dao thợ mộc cũng có chỗ đứng của con dê, vì con dê là một trong ba con vật "tam sinh" (bò, heo, dê) trong các lễ hội được dùng để tế thần:
                        Bốn cửa anh chạm bốn dê
                        Bốn con dê đực chầu về tổ tông.
                                                            
(Ca dao)
Trong các trò chơi dân gian dịp tết, có trò chơi "bịt mắt bắt dê" hào hứng, sôi nổi. Đối với trẻ con, trò chơi này là thú vui hồn nhiên, nhưng đối với các cô cậu thanh niên, thiếu nữ là một dịp để tiếp cận đụng chạm vui đùa với nhau.
                        Giả vờ bịt mắt bắt dê
                        Để cho cô cậu dễ bề... với nhau
                                                            
(Vè)

Con dê suốt đời mang tiếng xấu một cách oan uổng, khi mọi cái xấu xa của người đời đổ trút lên đầu dê. Trong đó, có sự đồng hoá con dê với bọn thực dân cướp nước:
                        Này anh chị em lao khổ
                        Nông nỗi này ai tỏ chăng ai
                        Đã non tám chục năm rồi
                        Làm thân trâu ngựa cho loài chó dê.
                                                            
(Bài ca cách mạng)

Khi Nam Kỳ mất vào tay giặc, cũng có tác giả làm bài thơ "Con dê" nhằm chỉ trích bọn tiểu nhân làm tay sai cho giặc. Bởi nặng đầu óc nô lệ, nên chúng cam lòng cúi đầu để mặc tình giặc thao túng:
                        Giống nai sao lại tiếng bê hê
                        Đứng lại mà coi vốn thiệt dê
                        Đực cái cũng râu không hổ thẹn
                        Vợ chồng một mặt hết khen chê
                        Sớm phơi bốn móng sân Tô Vũ
                        Chiều gác đôi sừng cửa Lý Hề
                        Bởi nó sợ trâu kia dớn dác
                        Cam lòng chịu buộc lịnh vua Tề
Trong lúc đó, hầu hết sĩ phu đều giữ vững lòng thuỷ chung đối với quê hương Tổ quốc. Có người đã làm bài thơ "Tô Vũ" để gởi gắm tâm sự trung thành của mình:
                        Ngàn dặm Trường An mặt luống băng
                        Đoạn sầu căn dặn nỗi tằn mằn
                        Khôn đem tóc bạc thay đầu ác (1)
                        Dễ khiến lòng son đổi miệng lằn
                        Đêm lạnh ngù cờ sương lợt đợt
                        Ngày chiều dải mão (2) gió xung xăng
                        Muôn dê bao sá loài Hồ lỗ (3)
                        Một tưởng hàng vương, một nghiến răng
Tô Vũ là tôi trung của nhà Hán (Trung Quốc) đi sứ mang đất Hung Nô, bị chúa Hung Nô là Thuyền Vu giữ không cho về, dụ dỗ Tô Vũ đầu hàng nhưng không được. Thuyền Vu nổi giận đem Tô Vũ bỏ vào hang núi cho chết đói, nhờ uống sương đọng trên ngù cờ mà vẫn sống. Cuối cùng đẩy Tô Vũ đi Bắc Hải chăn dê, hẹn rằng khi nào dê đực đẻ thì mới tha về nước. Sau, nhà Hán đánh bại Hung Nô, Tô Vũ mới được tha về.

Còn Bá Lý Hề là tướng nước Ngu (Trung Quốc). Nước Ngu bị Tấn cướp, Bá Lý Hề lưu lạc sang nước Sở làm kẻ chăn dê. Vua nước Tần là Mục Công biết Bá Lý Hề là người tài giỏi, sai người mang 5 bộ da dê chuộc về làm tướng quốc. Sau, Bá lý Hề giúp Mục Công dựng nghiệp lớn.

Khi Bá Lý Hề lên đường lập công danh, người vợ nghèo đưa tiễn, đến lúc làm tướng quốc mải say mê công danh quên người vợ nghèo. Nàng lên đường đi tìm chồng. Nhân Bá Lý Hề bày tiệc có ca nữ múa hầu, nàng liền cải trang làm một ca nữ vào trước tiệc ôm đàn hát một khúc:
                        Bá Lý Hề năm bộ da dê
                        Nhớ ngày chàng ra đi, giết con gà mái ấp, thổi nồi cơm gạo vàng.
                        Chừ nay được giàu sang, quên ta sao?
Bá Lý Hề nghe câu hát ngạc nhiên nhìn kỹ thì nhận ra là người vợ thuở hàn vi, hai vợ chồng lại đoàn tụ.
"Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo kể tội bọn sứ giả nhà Nguyên (Trung Quốc) sang nước ta hống hách, có đoạn:
                        Cú diều uốn lưỡi thấp cao
                        Bẻ bai triều bệ xiết bao nhục nhằn
                        Tuồng dê chó tưởng rằng đắc thế
                        Chốn triều đình ngạo nghễ vương công
                                                                        
(Hịch tướng sĩ)

Con dê trong thơ ca mang nhiều tiếng xấu do người đời gán cho một cách vô tội vạ, vì con vật và con người khác nhau. Con vật vô tri sống theo dục tính, còn con người có lý trí sống theo đạo đức. Lấy hình tượng con vật mà nói về con người hoặc ngược lại, chỉ là một lối ẩn dụ.
Con dê vốn ngoan ngoãn, hiền lành, có sức sống mãnh liệt sung mãn. Thịt ngon, sữa tốt. Thật ra, con dê dễ thương hơn là đáng ghét như con người đã có thành kiến từ lâu trong dân gian.

Năm Dê (Mùi) mà lại dê đáng quý (Quý Mùi) tượng trưng cho sự sung sức, nhất định sẽ là năm sung túc, dân giàu nước mạnh, Tổ quốc quang vinh.
Vĩnh Long, Xuân Quý Mùi 2003






THỊT DÊ-TƯƠNG GỪNG
Nhật Tiến
Thịt dê chấm vơi tương gừng
Ăn xong khí thế phừng phừng như...dê
Vợ rằng : Món ấy tuyệt ghê
Ngày mai ta lại thịt dê...tương gừng
Để rồi ta lại phừng phừng
Ngày ngày ta lại tương gừng...thịt dê
Đêm về vợ mới tỷ tê :
Mình ơi em khoái thịt dê...tương gừng
Để rồi ta lại phừng phừng
Ngày nào ta cũng tương gừng ...thịt dê
Đêm nào vợ cũng rủ rê :
Mình ơi nữa nhé thịt dê...tương gừng.

Hà Nội, tháng 6 năm 1993.

Thần dê và các nữ thần

Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2014

XÓM GÁI HOANG

Tác giả: Nguyễn Quang Lập
Hồi sơ tán ở làng Đông, nhà mình ở đầu làng, từ đấy cứ đi ngược lên phía Tây Bắc, băng qua rặng trâm bầu là gặp một cái bàu sen cực rộng, rộng đến nỗi đứng bên này bờ cứ tưởng mặt trời chui lên từ bờ bên kia.
Bàu sen nước đen ngòm, sen và súng mọc tràn lan, chẳng ai chăm sóc. Không mấy khi thấy hoa sen, hễ có cái hoa nào mới nở là con nít vặt liền, đài sen cũng không thấy, chỉ thấy mỗi lá không thôi. Con nít ra đây không phải hái hoa sen, chủ yếu là bắt cá lia thia. Cá lia thia ở đây rất đẹp, to, khoẻ, chọi nhau rất hay. Mình cũng hay ra đây, lọ mọ suốt ngày phục bắt cá lía thia về chọi nhau với cá tụi bạn.
Bên kia bàu là một xóm nhỏ, có mấy túp lều tranh cất tạm, núp dưới rặng trâm bầu, xưa gọi là Xóm Bàu, bây giờ ai cũng gọi là Xóm gái hoang. Ba người đàn bà ở đấy không phải gái chửa hoang, đấy là những người đàn bà bất trị.
 
Người nhiều tuổi nhất là mụ Cà, năm 1967 mụ chỉ hơn bốn chục tuổi.
Mụ Cà lấy chồng lúc 16 tuổi nhưng mãi không có con, chồng mụ chán đời uống rượu say, té xuống ao, chết. Khi đó vào năm 1953, mụ mới 31 tuổi, tham gia đội du kích rất tích cực. Đội trưởng du kích khi đó là cu Miễn, rất khen ngợi mụ, họp đội du kích nói đồng chí Cà nợ nước thù nhà, chiến đấu rất hăng say.
Mụ Cà đứng lên nói bá cáo tui chỉ nợ nước thôi, không có thù nhà. Cu Miễn nói Đế quốc Pháp lừa bịp dân ta, cho uống rượu say, nhiều người chết, trong đó có chồng đồng Cà, thù nhà của đồng chí Cà là ở chỗ đó đo.
Mụ Cà cười nói oa rứa a, oa rứa a.
Cuối năm 1953 Pháp từ Ba Đồn càn lên làng Đông, dân làng bỏ chạy cả, chỉ còn đội dân quân vẫn ở lại giữ làng. Mụ Cà mải bắn địch một hướng, không biết Pháp vào làng theo hướng khác, anh em du kích bỏ chạy cả mụ vẫn không biết, bị một thằng Pháp xông đến đè cổ mụ trên cát, hiếp.
Mụ Cà chống cự quyết liệt, liên tục hô đả đảo đế quốc Pháp, đả đảo đế quốc pháp. Thằng Pháp khoẻ hơn, đè riết không cho mụ động cựa. Mụ vẫn không sợ, miệng vẫn hô vang đả đảo đế quốc Pháp.
Lúc đầu mụ còn hô to, đầy đủ cả câu đả đảo đế quốc Pháp, sau nhỏ dần hụt hơi hơi dần, đã đảo đế quốc... rồi đả đảo đế... rồi đả đảo...Cuối cùng chỉ còn mỗi đả ả ả ả...Xong om.
Chuyện mụ Cà bị một lính Tây hiếp cả làng ai cũng biết, bàn tán xôn xao. Cu Miễn họp đội du kích phát động căm thù. Cu Miễn nói đồng chí Cà kể lại cho anh em nghe. Mụ Cà nói kể cái chi? Cu Miễn nói kể việc đồng chí bị giặc Pháp hiếp ra răng. Mụ Cà nói thì cũng giống như lẹo chắc, nhưng đây là hiếp rứa thôi, chi mà kể. Đồng chí Cu Miễn không biết lẹo chắc à?
Cu Miễn nói đồng chí Cà nghiêm túc vào, hiếp khác với lẹo chắc. Mụ Cà nói nhưng tui không biết kể chi hết. Cu Miễn nói ví dụ giặc Pháp đè đồng chí xuống, xé áo quần đồng chí rất dã man. Mụ Cà nói đúng rồi rất dã man. Tui chống cự rất quyết liệt, vừa chống cự vừa hô đả đảo đế quốc Pháp.
Cu Miễn mừng rỡ nói rứa đo rứa đo, đồng chí kể tiếp đi. Mụ Cà nói chỉ rứa thôi, biết kể chi nữa.
Cu Miễn nói lúc đầu răng, cuối cùng ra ra răng cứ rứa mà kể.
Mụ Cà hỏi kể thiệt a? Cu Miễn nói có răng đồng chí cứ kể rứa.
Mụ Cà nói bá cáo các đồng chí lúc đầu hắn đâm một phát tui chửi rất hăng, sau hắn đâm nhiều quá, sướng rồi hết chửi.
Mọi người cười, vỗ tay ầm ầm, nói ua chầu chầu hay hè hay hè.
Cu Miễn tức, đập bàn chỉ tay mụ Cà quát phản động, bắt mụ ni trói lại cho tui. Mọi người ngơ ngác không hiểu sao.
Cu Miễn nói, mụ ni hợp tác hủ hoá với giặc Pháp, rứa mà các đồng chí không hiểu, còn vỗ tay hoan hô. Mất lập trường rồi các đồng chí ơi!
Mụ Cà nói đồng chí Cu Miễn nói rứa oan tui. Cu Miễn nói mụ Cà kia, tui không đồng chí với mụ.
Mọi người nói ua chầu chầu đồng chí cu Miễn nóng quá.
Cu Miễn hô cả trung đội đứng dậy, nghiêm! Tôi quyết định đuổi mụ Cà ra khỏi trung đội dân quân. Từ nay không được ai kêu mụ Cà là đồng chí, rõ chưa. Cả trung đội đập chân ưỡn ngực hô rõ.
Đáng lẽ mụ Cà im lặng không kiện cáo gì thì mọi chuyện cũng qua. Nhưng mụ tức, mụ gặp xã đội trưởng kiện đi kiện lại, nói tui không hủ hoá, giặc Pháp hiếp tui thiệt.
Xã đội trưởng nói bị giặc Pháp hiếp, đồng chí có căm thù không? Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng có căm thù. Xã đội trưởng nói căm thù răng lại nói sướng? Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng tui không sướng.
Cu Miễn nói mụ đừng có chối, mụ nói sướng, cả trung đội nghe rõ ràng. Mụ Cà nói tui không sướng.
Cu Miễn hỏi: mụ có nói sướng không, mụ Cà nói có. Cu Miễn nói đó, mụ công nhận rồi đó, hết kêu oan nghe.
Mụ Cà nói bá cáo xã đội trưởng tui vẫn oan. Xã đội trưởng nói đồng chí Cà nói hay,vừa kêu sướng vừa kêu oan là răng?
Mụ Cà nói tui căm thù giặc Pháp, nó hiếp tui, tui không sướng, tại cái bướm tui sướng chứ tui không sướng.
Mọi người cười, vỗ tay ầm ầm, nói ua chầu chầu hay hè hay hè.
Xã đội trưởng tức, đập bàn quát, bậy bạ, dung tục, phản động! Rứa mà các đồng chí còn cười được à. Mất lập trường!
Mụ Cà khóc nói báo cáo xã đội trưởng oan tui quá. Xã đội trưởng nói oan răng mà oan! Mụ Cà khóc rống lên, nói oan oan, các đồng chí toàn cu, không ai hiểu được bướm...
Xã đội trưởng đập bàn quát câm mồm! Xã không có trách nhiệm hiểu cái bướm của mụ!
Mụ Cà phủi đít quần, nói ẻ vô nói với các đồng chí nữa, rồi về. Mấy thắng sau đi đâu cũng bị làng xóm chê cười, mụ Cà nói ẻ vô ở làng ni nữa, rồi bỏ ra xóm Bàu ở.
Đó là người thứ nhất ra xóm Bàu, à quên, Xóm gái hoang

 
 Người thứ hai là chị đóc Xấu, mặt chị đẹp như mặt Đức Mẹ, phải cái chị cao quá, gần mét tám, hồi này là có thể thi hoa hậu nhưng ngày đó thì bị người ta coi là dị dạng. Bố mẹ chị nhiều năm hục hặc cũng vì chị càng ngày càng cao, mới 13 tuổi đã cao hơn hẳn đám trai làng, nhiều người nói è he đóc Xấu con tây, không phải con Mẹt Huỳnh mô. Bố chị nghi mẹ chị lấy Tây hoặc bị tây hiếp như mụ Cà. May chị càng lớn càng có nhiều nét giống bố, nên thôi.
Chị đi đâu, tụi con trai lén đi sau lưng, nhảy nhảy lên cho cao bằng chị, rồi bịt miệng cười với nhau, chị biết, không thèm ngoái lại, mặt vênh lên vẻ bất cần. Nhưng tối về thì ra giếng ngồi bưng mặt khóc. Có lần chị về chợ Ba Đồn, chợ phiên sáu đông nghịt, thế mà chị đi đâu ai cũng thấy, cái đầu chị vượt lên cả ngàn người, chuyển động từ đầu chợ đến cuối chợ, ai nhìn cũng tức cười.
Con trai Ba Đồn chạy rật rật theo chị, trầm trồ oa chà ăn chi cao rứa hè, con ni e lấy voi. Có người vẽ cái bướm dài ba gang trên cột điện, đề: Đây là l. đóc Xấu.
26 tuổi rồi chẳng ai dám mang cau trầu đến hỏi. Tuổi đó bị coi là ế chồng. Bố mẹ chị lo lắng vô cùng, bữa cơm nào cũng càm ràm răng con tui ế câm ế cảy ri hè. Chị nghe nói thế thì bỏ bát ra giếng ngồi khóc.
Bố mẹ chị đánh tiếng ai muốn lấy đóc Xấu tụi tui cho không, không cần cưới hỏi chi hết, nhắn nhe từ đầu làng đến cuối xóm cũng chẳng ai thèm. Vừa lúc chiến tranh phá hoại miền Bắc, bom rơi đạn nổ khắp nơi. Hễ có máy bay, mọi người ba chân bốn cẳng chạy vào hầm, chị đóc Xấu không chạy, ngồi bó gối giữa sân. Bố mẹ chị dục xuống hầm, chị nói để con chết bom cho xong, nhục lắm.
Nhà ông Quắn ở Quảng Thuận lên sơ tán, chuyên nghề đúc soong nồi từ vật liệu máy bay. Nhà này rất giàu, làng Đông hồi đó nhà nào có vài nghìn đồng, dăm mười cây vàng gọi là giàu sụ, nhà ông Quắn còn nhiều hơn thế.
Vợ chồng ông Quắn có đứa con trai tên Hào cao 2m, trắng trẻo đẹp trai, phải cái bị ngất ngơ, hình như bị down, suốt ngày ngồi ngạch cửa nhìn ra đường, thỉnh thoảng cười hậc cái, nói hay hè. Chẳng có gì cũng cười hậc cái, nói hay hè.
Dòng họ ông Quắn chỉ mình ông là con trai, đẻ ra thằng con ngất ngơ, vợ chồng ông lo lắm, sợ tiệt giống. Biết chị đóc Xấu ế chồng, họ mừng húm, mang cau trầu đến hỏi liền. Lúc đầu chị đóc Xấu cự nự không chịu, sau cả vợ chồng ông Quắn, cả bố mẹ chị quì lạy như tế sao, chị tắc lưỡi nói lấy thì lấy.
Đám cưới chị đóc Xấu 1 bò hai lợn, to nhất lịch sử làng Đông. Cu Miễn bây giờ là chủ nhịêm HTX, làm chủ hôn, như kiểu MC bây giờ, nói alô alô trăng trên trời có khi tròn khi méo/ Xấu yêu Hào thật khéo lắm thay.
Chị đóc Xấu lần đầu son phấn, mặt cúi gầm không dám nhìn ai. Anh Hào ngồi cạnh chị , ngơ ngác nhìn mọi người, cười hậc cái, nói hay hè.
Cu Miễn nói a lô a lô vui duyên mới không quên nhiệm vụ/ Xấu và Hào ưu tú cả hai/ người quốc sắc kẻ thiên tài/ tình trong hợp tác thuận, mặt ngoài hai họ ưa.
Ông Quắc vỗ tay đôm đốp nói đụ mạ Cu Miễn nói hay.
Rước dâu từ sân kho hợp tác, cô dâu chú rể cao lêu đêu nổi bật giữa đám rước. Mọi người nói ua chầu chầu giống tây giống tây. Chị đóc Xấu vấp cục đá, ngã quị. Anh Hào đứng trố mắt nhìn. Mọi người nói kéo vợ lên tề, Hào tề! Anh cứ đứng ngơ, cười hậc cái, nói hay hè.
Đêm động phòng bà Quắc kéo chị đóc Xấu ra sau hồi, nói có khi chồng con không biêt mần chi mô, con phải bày cho hắn nghe con. Chị đóc Xấu nói bày chi mạ. Bà Quắc làm động tác, nói đầu tiền mần ri nì ri nì, sau nó chịu rồi thì ri nì ri nì, rồi ri nì ri nì, nghe chưa. Chị đóc xấu ngượng nói dạ, bà Quắc nói cố lên con, đầu tiên ngượng chút thôi, sau sướng mê man luôn, khe khe khe.
Vợ chồng ông Quắc nằm phòng bên nín thở nghe động tĩnh. Bà Quắc nói không biết con mình có làm ăn chi được không. Ông Quắc nói è he lo chi hè, chó mèo còn làm được nữa là người.
Trong buồng, chị đóc Xấu nằm ngửa chờ đợi, anh Hào ngồi bó gối nhìn chị lom lom, cười hậc cái, nói hay hè. Chị đóc Xấu chờ mãi không được, bèn trật vú ra nói đây nì đay nì. Anh Hào đặt tay lên vú, cười hậc cái , nói hay hè. Chị đóc Xấu trật bướm ra nói đây nì đây nì, anh Hào đặt tay lên bướm, cười hậc cái, nói hay hè.
Cứ để nguyên tay vú tay bướm, anh Hào ngồi nhìn lom lom, cười hậc cái , nói hay hè, rồi lăn ra ngủ như chết.
Cả tháng trời sáng nào bà Quắc cũng kéo chị đóc Xấu ra sau hồi nói răng rồi răng rồi, chị đọc Xấu ứa nước mắt nói không răng cả mạ ơi. Bà Quắc lại làm động tác, nói đầu tiền mần ri nì ri nì, sau nó chịu rồi thì ri nì ri nì, rồi ri nì ri nì, tóm lại vẫn không ăn thua. Chị đóc Xấu ôm mặt khóc, nói mạ ơi cho con về nhà.
Không biết vợ chồng ông Quắc bàn bạc ra sao, tối đó ông Quắc vào buồng, nói với chị đóc Xấu: thôi, con chịu khó để ba mần ví dụ cho chồng con coi, lập tức ông bị ăn một cái tát rụng mất cái răng cửa.
Ông Quắc nói hay để ba thuê đứa mô mần ví dụ, ông lại ăn thêm một cái tát, rụng mất cái răng cửa nữa. Anh Hào nhin cái mồm đầy máu của ông Quắc, cười hậc cái, nói hay hè.
Chị đóc Xấu đùng đùng xách áo quần ra về, hai vợ chồng ông Quắc qùi xuống ôm chân chị khóc nói khoan khoan, còn nước còn tát con ơi!
Cu Miễn nói với ông Quắc: chúng tôi coi gia đình bác là người của hợp tác, cháu Hào chưa biết làm chồng thì hợp tác phải có trách nhiệm.
Ông Quắc nói phải phải, hợp tác yêu cầu chi vợ chồng tui chấp hành liền. Cu Miễn nói chủ nhiệm HTX mần ví dụ nhất định đóc Xấu phải chấp hành. Ông Quắc nói phải phải.
Tối đó Cu Miễn vào buồng chị đóc Xấu, nóí đồng chí đóc Xấu, tui được hợp tác giao nhiệm vụ mần ví dụ cho đồng chí Hào coi, đồng chí cứ coi tui như đồng chí Hào, mần như thiệt nghe không?
Cu Miễn nói chưa xong đã ăn một cái tát, rụng liền hai cái răng cửa. Cu Miễn tức, nhảy ra sân thổi còi gọi dân quân tới. Vợ chồng ông Quắc lạy lục Cu Miễn, đền một trăm đồng Cu Miễn mới chịu thôi, vụ án mần ví dụ tạm thời khép lại.
Cu Miễn nói đóc Xấu vô cớ đánh chủ nhiệm hợp tác, đuổi cổ nó ra khỏi đoàn đội. Chị đóc Xấu nói không cần đuổi mất công, tui cút khỏi làng giờ.
Chị ôm anh Hào khóc, nói ôi chồng ơi chồng ơi, chó mèo còn biết làm răng chồng không biết. Anh Hào cười hậc cái , nói hay hè.
Chị đóc Xấu lạy ông bà Quắc, lạy bố mẹ mình đi thẳng ra xóm Bàu. Đó là người thứ hai trong Xóm gái hoang.
 
Người thứ 3 là chị Mai. Chị hơi thấp, múp máp, da trắng ngần, đặc biệt chị hát hay ngâm thơ đều hay cả. Người thì gọi chị là Châu Loan* xóm, người thì gọi Tường Vi** xóm.
Họp đội, họp xóm, họp đoàn, đám cưới đám hỏi nhất nhất phải có chị hát mới xong. Mọi người nói Châu Loan mô rồi hè? Chị đứng lên liền, nói đây đây. Người nóí ngâm bài rứa là hết đi, người nói không không ẻ vô bài nớ, ngâm bài "chào sáu mốt đỉnh cao" tề.
Chị thuộc toàn thơ Tố Hữu thôi, mấy bài trong sách giáo khoa chị thuộc sạch. Hỏi nước mình có ai là nhà thơ, chị nói Trần Đăng Khoa với Tố Hữu, hỏi còn ai nữa không, chị nói từng nớ ngâm đã rã họng ra rồi, nhiều chi lắm.
Đầu buổi ngâm thơ cuối buổi hát, hoặc ngược lại, khi nào cũng vậy ở đâu cũng vậy. Mọi người nói Tường vi mô rồi hè, chị đứng lên liền, nói đây đây. Người nói hát bài Noọng ơi trăm ngàn nở hoa đi, người nói dở dở quẹt quẹt, hát nắng toả chiều nay tề.
Chị hát say sưa, miệng hát ngực rung hấp dẫn vô cùng.
Có hai người mê chị, một là anh Toả bí thư chi đoàn, hai là Cu Mèo con trai cu Miễn. Mỗi lần chị Mai hát, anh Toả nhìn miệng chị không chớp, miệng mấp máy, người đu đưa, nói hay hè hay hè; cu Mèo nhóng cổ nhìn ngực chị rung rung, thè lưỡi liếm một vòng, nói đụ mạ hát rứa mới hát chớ, lại thè lưỡi liếm một vòng.
Nhưng chị Mai ghét Cu Mèo, yêu anh Toả. Cu Mèo tức lắm, đứng dạng háng chặn đường chị Mai hỏi tui thua cu Toả cái chi? Chị nói không, bỏ đi. Cu Mèo vượt lên nói tui tên Mèo, xấu phải không? Chị nói không, lại bỏ đi.
Tối cu Mèo trèo lên cây xoan sau hồi nhà chị Mai, dóng mồm xuống cửa sổ nhà chị kêu vơ Mai nời... tui ưng Mai rồi vơ Mai! Vơ Mai nời... cu Toả không bằng bãi cứt trâu, ưng hắn mần chi. Chị Mai đóng cửa sổ, cu Mèo hát hờn căm bao lũ tham tàn... cu Toả! Rồi lại hét Mờ eo meo huyền Mai! Mờ ai mai huyền Mèo. Tối nào cũng ầm ĩ, không cho ai ngủ ngáy gì cả.
Buổi trưa nắng nóng chị Mai gánh lúa về, cu Mèo chặn đường, dạng háng nói ưng tôi đi, mai mốt tui làm lái xe. Chị Mai đang gánh lúa, mệt, nói ẻ vô, bỏ đi. Cu Mèo lại vượt lên trước, đứng dạng háng, nói ưng tui đi, mai mốt bọ tui lên xã, tui làm chủ nhiệm. Chị Mai đánh môi cái bịp nói ẻ vô, bỏ đi.
Cu Mèo vẫn không chịu, lại vượt lên, đứng dạng háng, tụt quần nói, cặc tui ri nì, Mai ưng không? Chị Mai vứt gánh lúa, chồm tới túm chim cu Mèo nghiến răng vặn, nói khoe cái cố tổ mi, khoe cái cố tổ mi.
Cu Mèo kêu như cha chết, nhưng đi đâu cũng khoe em Mai cầm chim tau rồi, khen chim tau đại chang, khe khe khe... bằng mười chim cu Tỏa, khe khe khe...
Tết năm 1967, làng làm hội diễn văn nghệ ở đình làng. anh Toả chị Mai hát song ca bài "Trước ngày hội bắn", chị Mai mặc váy, cầm cái ô xoay xoay e thẹn, bắp chân trần trắng muốt, liếc cái, hát "ai tin anh nói"... anh Toả mặc áo quần bộ đội, đội mũ tai bèo, liếc cái, hát : "vì sao em nói nghe nào..."
Bà con nói ua chầu hầu hay hè hay hè. Cu Mèo đứng dậy nói hay cái l. mạ bay! Bà con nói ua chầu chầu cu Mèo nói bậy quá hè. Cu Mèo nói đồ xã viên biết cái chi! Rồi hát rống lên hờn căm bao lũ tham tàn... Mai Toả!
Mọi người nói ua châù chầu cu Mèo ỷ thế con chủ nhiệm mất trật tự quá hè. Cu Mèo nói đồ xã viên biết cái chi! Rồi lại hát cu cu Toả ơi, cu cu Toả ơi.. chim mi mô rồi, chim mi mô rồi... đọ tau cái coi.
Bà con đòi đưa cu Mèo ra kiểm điểm, cu Miễn nói đồng chí cu Mèo nóng tính, có nói bậy nhưng xuất phát từ tấm lòng yêu thương xã viên nghèo như đồng chí Mai. Rứa là tốt. Quan trọng là tấm lòng, không quan trọng cái lỗ mồm. Người nói tốt rứa a tốt rứa a, người không nói gì, người nói tốt rứa đo tốt rứa đo.
Anh Toả nói đồng chí Cu Miễn sai rồi, nguỵ biện bao che con cái. Cu Miễn nói chính đồng chí cu Toả mới nguỵ biện. Anh Tỏa hỏi răng, cu Miễn nói đồng chí là bí thư chi đoàn, mồm nói căm thù giặc sâu sắc, yêu Tổ quốc nồng nàn lại không chịu gương mẫu xung phong đi bộ đội. Cu Toả nói khó chi, tui đi ngay!
Ra tết anh Toả đi bộ đội, cu Miễn nói rất hoan nghênh tinh thân dám nghĩ dám làm của đồng chí cu Toả, rồì tổ chức cho làng Đông học tập tinh thần đồng chí cu Toả. Cu Miễn đề nghị chị Mai làm bí thư chi đoàn, gánh vác cho người đi xa. Chị Mai nghe nói vậy thì nhận, cu Miễn nói rứa mới thấy hậu phương yêu thương tiền tuyến chơ, khe khe khe.
Cu Mèo nói tui muốn lấy con Mai, làm răng bọ? Cu Miễn nói mồm mi thối lắm, được con cặc là kiên cường, tận dụng thế mạnh đi con. Rồi nói với chị Mai đồng chí cu Mèo chậm tiến, đồng chí nên gặp riêng nhắc nhở.
Tối, chị Mai họp chi đoàn ở kho hợp tác, hết họp thì bảo cu Mèo ở lại nhắc nhở, cu Mèo đè chị ra hiếp liền. Chị Mai xấu hổ không dám nói ai, đi một mạch xuống Quảng Thanh, ngồi đợi máy bay tới thả bom thì lao vào. Chị không chết, bị một mảnh bom đâm đúng cuống họng, không nói được, nói gì cũng cứ dá da da da.
Cu Mèo nói tui cần mồm dưới, không cần mồm trên, Mai lấy tui đi. Chị Mai trợn mắt đạp vào bộ hạ cu Mèo một phát, nói dá da da da... dá da da da!
Cu Miễn nói hoàn cảnh đồng chí rất khó khăn, đồng chí về làm dâu nhà tôi, chúng tôi có trách nhiệm giúp đỡ đồng chí. Chị Mai trợn mắt đập vào mồm cu Miễn một phát, nói dá da da da... dá da da da, rồi xách áo quần ra thẳng xóm gái hoang.

 Xóm chỉ có 3 nhà, về sau thì có cả trăm nhà nhưng năm 1967-1968 chỉ có ba nhà thôi. Mụ Cà nói tao trưởng xóm, hai đứa bay xóm viên, khỏi bầu bán chi mệt. Chị đóc Xấu nói cho em xóm phó cho oách, con Mai nhỏ tuổi nhất làm xóm viên, đồng ý không? Chị Mai cười, nói dá da da da.

Phần vì xóm quá xa các làng, phần vì đồn đại, thêu dệt ba người đàn bà Xóm gái hoang rất ghê rợn, nhiều người sợ cấm con cái không được ra đó. Người ta đồn hễ ai ra Xóm gái hoang về thì không cháy nhà cũng mất của, chết bất đắc kì tử không chừng. Xóm không có ai vãng lai, cái xóm nhỏ ba ngôi nhà như một vương quốc riêng

Bàu sen mênh mông cho họ đủ thứ ăn, lại còn thừa mang bán. Tôm cá ê hề, ngó sen đài sen hoa sen thu nhập cũng khá, họ còn thả rau muống dây, mỗi tuần xuống chợ gánh rau muống, gánh cá, gánh sen, ăn uống thoả thuê còn thừa cả nghìn đồng một tháng.

Chị đóc Xấu nói ua chà, răng sướng ri hè, biết rứa em bỏ hợp tác từ khi mới đẻ. Mụ Cà nói hợp tác với hợp teo, cu Miễn mưu mô cả năm không bằng tau ngâm l. bàu sen một buổi. Chị Mai cưòi nói dá da da da.. dá da da da.

Nhưng buồn. Ngày mải làm,quên, tối buồn rũ ra. Buổi tối, ba ngườì ăn cơm chung, ăn xong mụ Cà buông bát nằm dài ra, nói bây chừ mần chi hè? Chị đóc Xấu cũng buông bát nằm dài ra, nói mần chi hè? Chị Mai nằm dài ra theo, nói dá da da?

Mụ Cà bày rượu ra uống, một bát uống vòng, uống được ba bát thì say, như lũ cuồng đập phá lung tung. Mụ Cà nhảy lên hòn đá, vỗ bướm bôm bốp nói vơ đàn ông... đây nời đây nời! Chị đóc Xấu chổng mông vỗ bem bép, nói đây nời đây nời! Chị Mai tụt quần, cầm quần khua khua chạy quanh sân, nói dá da da.... dá da da!

Cả ba nằm vật ra, không ai nói với ai, thở vào thở ra, miệng chóp chép. Mụ Cà nói đàn ông ngu chi ngu lạ, chị đóc Xấu nói ừ đo, ngu chi ngu lạ! Chị Mai nói dá da da! Rồi ba chị ngồi ôm nhau khóc, khóc đến dã rượu thì ngủ lịm.

Ba chị ra chợ, thấy có người đứng ôm cái đài orionton đòi bán, họ mua ngay, 700 đồng cũng mua, về nhà tranh nhau mở. Đài phát tin chiến thắng, mụ Cà vỗ đùi đánh bốp, nói thấy chưa, tau nói đúng chưa, chết cha Mỹ Diệm chưa! Chị đóc Xấu nằm vật ngửa ra, chổng chân lên trời, nói oa làng ơi sướng! oa làng ơi sướng ! Chị Mai cười toét nhảy chồm lên chị đóc Xấu dập dập nói dá da... dá da... dá da.

Nhưng nghe mãi cũng chán, quanh đi quẩn lại cũng chỉ tin chiến thắng, hết chỗ này thắng lợi đến chỗ kia thắng lợi, Mụ Cà thở ra, nói răng thắng hoài thắng huỷ rứa mà chưa thấy hoà bình chi cả hè. Chị đóc Xấu nói ừ đo... ừ đo, chị Mai nói dá da... dá da.

Đài vẫn phát tin thời sự, miền Nam thắng lớn nơi này nơi kia, miền Bắc sản xuất thắng lợi nơi này nơi kia, lãnh đạo thăm hỏi nơi này nơi kia, mụ Cà nốp ruột kêu vơ đài nời, hát đi với, nói chi nói lắm.

Nằm dài vuốt bụng chán thì vùng dậy lấy soong nồi gõ ầm ĩ, lại còn múa hát. Mụ Cà nói lối như ta đây là Lê Thị Cà, một lần tây hiếp đến già không quên, rồi gõ cái choeng! Chị đóc Xấu, chị Mai nhảy nhảy gõ gõ choeng choeng!

Mụ Cà hát này này ơi chị em ơi, Chị đóc Xấu nói ơi, Chị Mai nói dá da. Mụ Cà hát lũ đế quốc vô cùng tàn ác, sức đã dai mà cặc lại to, thế nên ta phải căm thù, choeng! Chị Mai, chị đóc Xấu nhảy nhảy gõ gõ choeng choeng!

Hát hò chán lại nằm vật ra, ba người ba góc, không ai nói với ai.

Máy bay xoẹt qua, mụ Cà nhảy lên hét vơ Đế quốc Mỹ nời, răng không thả phi công, toàn thả bom, ngu rứa ác rứa. Chị đóc Xấu cũng nhảy lên, hét ngu ngu!... ác ác! Chị Mai nhảy chồm chồm, hét dá da... dá da!

Mơ được ước thấy, phi công nhảy xuống bàu sen thật.

Một đêm, bộ đội dưới cảng Gianh bắn trúng máy bay, chiếc F4H cháy rùng rùng, đâm đầu xuống chân núi sau làng Trung Thuần, dân các làng sung sướng reo vang. Ba chị cùng nhảy cà tẩng, lấy soong nồi gõ ầm ĩ.

Chợt nghe cái bụp phía bàu sen, ngó ra thì thấy một cái dù đỏ xoè rộng trên bàu. Ba chị sướng rêm, lội ra ngay.

Hồi này dù là một chiến lợi phẩm dân chúng rất mê. Hễ có một cái dù pháo sáng, dù phi công nào rơi là từ dân chúng từ bốn phương tám hướng nhào ra, tay lăm lăm dao kéo, mạnh ai nấy xẻo. Nhiều khi tranh giành đập đánh nhau chí tử.

Ba chị cùng tay dao tay kéo lao ra. May tối hôm đó hình như mọi người mải xem máy bay cháy, không để ý, chẳng thấy có ai chạy ra, ba chị lân đầu được một cái dù trọn vẹn, lại dù đỏ, sướng ngây ngất.



Cuốn xong dù thì thấy một cái đầu nhô lên, ba chị rú lên chực bỏ chạy, cái đầu nói rốp rít xốp xít, ba chị nhìn lại, hoá ra là một phi công Mỹ, họ cứ đứng trơ nhìn nhau.

Mụ Cà sực tỉnh chĩa dao vào thằng Mỹ, nói dơ tay lên. Thằng Mỹ nói rốp rít xốp xít. Mụ Cà dơ dao đe, nói đụ mạ tau nói mi dơ tay lên. Thằng Mỹ cứ đứng trơ, nói rốp rít xốp xít. Chị đóc Xấu nói Đế quốc Mỹ ngu chi ngu lạ.

Chị Mai vung hai tay lên, nói dá da da, thằng Mỹ dơ hai tay lên liền. Mụ Cà, chị đóc Xấu trố mắt ngạc nhiên, nói con Mai nói chi mình không hiểu mà thằng Mỹ hiểu liền.

Mụ Cà chỉ tay vào xóm, trợn mắt với thằng Mỹ, quát dá da da da! Thằng Mỹ vội vàng đi vào xóm liền. Mụ Cà cười, nói è he, tưởng răng, tiếng Mỹ dễ òm!
 
 
Mụ Cà nói giải nó lên huyện đội ngay, chị đóc Xấu nói cho nó tắm rửa ăn uống đã chị, tội. Chị Mai gật gật đầu nói dá da.

Mụ Cà dắt thằng Mỹ đến cái giếng đất rộng bằng cái nong, sâu chừng một mét, chỉ cái gàu nói dá da da, thằng Mỹ gật đầu nói rốp rít xốp xít, rồi nhảy bùm xuống giếng, có lẽ nó tưởng cái bồn tắm.

Mụ Cà tức giận nhảy chồm chồm, nói, dá da da da, ngu ngu. Thằng Mỹ nhăn răng cười nói rốp rít xốp xít. Chị đóc Xấu nói chị nói rứa nó không hiểu mô. Mụ Cà hỏi nói răng thì hiểu, chị đóc Xấu nói chị không nghe đài diễn kịch à, tụi Mỹ toàn nói không có dấu.

Mụ Cà chõ mồm xuống giếng nói thang My kia may ngu qua, giêng an sao may nhay xuông tam, thằng Mỹ lại nhăn răng cười nói rốp rít xốp xít. Mụ Cà tức, nói rốp rốp cái mả cha mi, ngu chi ngu lạ.

Thằng Mỹ ăn cơm, chị đóc Xấu nói cơm, thằng Mỹ nói cóm, chị đóc Xấu nói cơm ngon, thằng Mỹ nói cóm ngón. Chị đóc Xấu nói canh, thằng Mỹ nói cắng. Chị đóc Xấu nói canh ngon, thằng Mỹ nói cắng ngón.

Mụ Cà gật đầu khen thằng Mỹ, nói giỏi giỏi! Thằng Mỹ nói dòi dòi, mụ Cà nói dòi dòi cái l. mạ mi, thằng Mỹ nói lón má ngón? Ba chị cườì nghiêng ngã.

Chị đóc Xấu nói hay để nó ở đây vài buổi cho vui, mình nuôi nó như nuôi con chó béc giê, có chi mô mà. Mụ Cà nói ý con Mai răng. Chị Mai gật đầu nói dá da.

Chỉ có giường chị đóc Xấu thằng Mỹ mới nằm vừa, chị để nhà cho thằng Mỹ ở, sang ngủ với mụ Cà. Nửa đêm chị đóc Xấu trằn trọc không ngủ được. Mụ Cà hỏi răng không ngủ, chị đóc Xấu nói nằm giường chị đau lưng lắm.

Mụ Cà nói hay cho mi sang ngủ với thằng Mỹ? Chị đóc Xấu cười rúc rích, ôm lưng Mụ Cà hỏi tây hiếp chị ra răng, Mụ Cà nói sướng chơ răng. Chị đóc Xấu nói sướng răng sướng răng, kể đi kể đi.

Vừa lúc chị Mai nhảy xổ vào nhà khua chân múa tay nói dá da dá da. Cả ba chạy ra thì thấy thằng Mỹ quỳ giữa sân làm dấu thánh, vừa khóc vừa nói rốp rít xốp xít.

Chị đóc Xấu nói nó cầu chúa đó, mụ Cà nói Đế quốc Mỹ cũng có chúa à, chị đóc Xấu nói có chơ, chúa che chở hết mà. Mụ Cà nói chúa thần kinh, che chở tầm bậy tầm bạ, chị Mai lắc đầu nói dá da da da. Chị đóc Xấu nói chà, còn hơn che chở cu Miễn cu Mèo.

Mụ Cà nói ngó bộ tui bay thương thằng Mỹ rồi đó, lộn xộn là tau giết nghe chưa. Chị đóc Xấu nói mô có mô có, chị Mai nói dá da.. dá da! Mụ Cà nói chà còn chối, thấy thằng cao to đẹp trai, bướm đứa mô đứa nấy nhóp nhép như mang cá mè, tau lạ chi . Chị đóc Xấu nói mô có mô có, chị Mai nói dá da dá da

Sáng mai ba chị bắt thằng Mỹ tát giếng, đào lại giếng. Chị đóc Xấu, chị Mai phụ với nó. Thằng Mỹ đưa thùng nước lên, chị Mai đón lấy, cười cái, liếc cái. Thằng Mỹ nói rốp rít xốp xít. Chị Mai cười cái, liếc cái, dẩu mồm nói dá da. Thằng Mỹ cười khư khư khư

Chị đóc Xấu tát nước, thỉnh thoảng hích thằng Mỹ, liếc cái. Thằng Mỹ cũng hích lại, liếc cái. Chị đóc Xấu lườm yêu, đập phát vào lưng trần thằng Mỹ, cười hi hi hi. Thằng Mỹ vuốt vuốt mông chị, cười khư khư khư.

Chị Mai đứng trên bờ nhìn thấy, tức, chạy tìm mụ Cà, lôi ra giếng, hết chỉ thằng Mỹ, nói dá da, lại chỉ chị đóc Xấu, nói dá da, hai tay chị đập đập xoa xoa, nói dá da... dá da. Mụ Cà chỉ mặt chị đóc Xấu nói tao cảnh cáo mi nghe chưa, giai cấp mô có con cu của giai cấp đó, đừng có lộn xộn.

Chị đóc Xấu xịu mặt nói chị nói rứa oan em, em căm thù Đế quốc Mỹ mà. Mụ Cà nói mi căm thù chớ bướm mi không có mắt, biết ai mà căm thù, ngu lắm!

Mụ Cà thở ra nói, ua chao ôi, đế quốc thực dân toàn bọn to con đẹp trai, tức chi tức lạ.

Đêm, mụ Cà kèm chặt chị đóc Xấu, nói đừng có lộn xộn em à, lộn xộn là tao đem nó đi nộp huyện đội liền, chị đóc Xấu nói răng chị không nghi con Mai, toàn nghi em.

Mụ Cà nghe nói thế thì giật mình, chạy sang tìm, cả thằng Mỹ cả chị Mai đều không có. Hai chị chạy tìm khắp nơi thì thấy thằng Mỹ đang đứng dựa gốc cây, bế xốc chị Mai lên hôn.

Mụ Cà nấp rình với chị đóc Xấu, thấy hôn môi, lạ quá, hỏi yêu là hun rứa à, chị đóc Xấu nói yêu là hun môi, chị không biết à. Mụ Cà nói tụi choa lớp trước, thích thì tụt quần mần đến mần đại, biết hun hít chi mô.

Đến đoạn thằng Mỹ kéo quần chị Mai thì mụ Cà xông tới, giằng chị Mai ra, đạp phát vào hạ bộ thằng Mỹ, tát một tát vào mặt chị Mai, nói á a cái con ni gan trời, dám yêu Đế quốc Mỹ.

Chị Mai ôm chân chị Cà khóc nói dá da dá a.. Mụ Cà lại cho thêm một tát nữa, nói mi là con phản động. Chị Mai lại ôm chân mụ Cà khóc rú lên, nói dá da... dá da da.

Mụ Cà ôm đầu ngửa mặt kêu, ôi chúa ơi chúa ơi, chúa cho đàn ông nước con to con đẹp trai đi chúa, không đàn bà con gái phản động hết!Dứt lời mụ Cà cắp nón đi liền, nói tau lên huyện đội báo người ta lôi cổ nó đi cho rồi, ngồi canh bướm tui bay nhọc lắm.

Mụ Cà gặp Cu Miễn đạp xe đạp dọc đường, Cu Miễn hỏi đi mô, mụ Cà nói bắt được phi công, Cu Miễn nói để tui lên báo cho, tui có xe đạp. Mụ Cà nói tui lên báo công để lấy bò chơ.

Cu Miễn nói bò mô trên huyện đội, người ta thưởng mồm thôi, bắt hợp tác chi bò chơ ai chi. Mụ Cà nói thiệt không, Cu Miễn nói răng không. Mụ Cà nói rứa Cu Miễn có thưởng bò tui không, cu Miễn nói răng không.

Mụ Cà quay về, đến gần nhà thì chị Mai ra khoa chân múa tay, mặt mày tái mét, nói dá da da da.... dá da da da. Mụ Cà lật đật chạy vào nhà, vừa lúc thằng Mỹ và chị đóc Xấu kéo quần lên.

Mụ Cà xông tới tát thằng Mỹ tới tấp, nói cha tổ Đế quốc Mỹ cha tổ Đế quốc Mỹ, bướm nước choa đã đau thương bọn bay còn hành hạ. Chị Mai nhảy chồm chồm trước mặt thằng Mỹ, hai tay xỉa xỉa, nói dá da... dá da... dá da!

Mụ Cà quay lại xốc cổ áo chị đóc Xấu, quát mi nói răng nói lại tau nghe. Chị đóc Xấu ôm lấy Mụ Cà khóc nói em chừa rồi em chừa rồi, đau lắm đau lắm, từ nay em ẻ vô Đế quốc Mỹ.

Cu Mèo đem đội dân quân xông vào, chĩa súng vào thằng Mỹ nói dơ tay lên. Mụ Cà giật tay cu Mèo, nói mi về nói hợp tác đưa bò cho tau, tau giao thằng Mỹ liền. Cu Mèo quát câm mồm, tội các chị dấu thằng Mỹ tui chưa đem ra toà, còn dám đòi bò!

Nói xong cu Mèo áp giải thằng Mỹ đi. Mụ Cà nói Đế quốc Mỹ mình không thua, chỉ thua cu Mèo cu Miễn thôi.

Tại hội nghị báo công, cu Miễn nói Đội du kích làng Đông đã mưu trí dũng cảm tóm gọn tên phi công Mỹ, giải thoát cho ba phụ nữ đang bị nó làm nhục.

Hội nghị ồ lên, người nói giỏi giỏi, người nói tài tài, người nói phục phục.

Ua chầu chầu chầu.