Thứ Hai, 20 tháng 2, 2017

Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử

Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử - Ảnh 14.
LTS: Phùng Học Vinh, sinh năm 1979, người Dương Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ông được đánh giá là tác giả ưu tú của Trung Quốc, tốt nghiệp Học viện Luật trường Đại học ngoại ngữ ngoại thương Quảng Đông; hiện sinh sống tại Hồng Kông.
Ngày 9/4/2015, Phùng Học Vinh đăng tải một bài luận tựa đề "Mấy điều nực cười về cách nhìn lịch sử của người Trung Quốc". Bài viết thách thức lịch sử quan thông thường của đại bộ phận quần chúng và xã hội Trung Quốc nói chung, gây ra các cuộc tranh cãi quyết liệt trên mạng xã hội nước này.
Một số tác phẩm của ông xuất bản tại Trung Quốc đại lục được hoan nghênh như "Lịch sử thực ra rất kinh người", "Từ Cộng hòa đến nội chiến: Chứng kiến 17 năm Bắc Dương"...
Dưới đây, chúng tôi xin gửi tới độc giả bài viết "gây bão" trên.
Bởi [tôi] là người viết sử, thường đàm luận lịch sử với bạn hữu nên đương nhiên không tránh khỏi những lúc cãi nhau"đỏ mặt tía tai". Ban đầu cho là việc tiếp nhận thông tin lịch sử của các bạn có vấn đề, nhưng lâu dần tôi nhận thấy vấn đề không chỉ nằm ở tiếp thu thông tin, mà do bản thân phương thức tư duy có vấn đề.
Tối nay nhàn rỗi viết mấy lời bàn về việc này. Cái gọi là bằng hữu dám nói thẳng, không có gì biết mà không nói ra. Hy vọng giúp quốc dân (ở đây chỉ người dân Trung Quốc - ND) mở mang đầu óc, thông minh hơn và đừng tự dối mình, dối người nữa.

Điều nực cười thứ nhất:
Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử - Ảnh 3.
Trung Quốc có rất nhiều người được gọi là nhà văn hóa, người yêu thích lịch sử. Mỗi khi bàn đến giai đoạn lịch sử mà Mông Cổ giành độc lập thì thường "tư tưởng lớn gặp nhau" mà phát biểu hai quan điểm thế này:
1. Chính phủ Quốc dân (chính phủ Trung Hoa Dân Quốc - ND) bất lực, để mất Ngoại Mông Cổ.
2. Nước Trung Quốc mới (CHND Trung Hoa - ND) vì sao lại đi ủng hộ Ngoại Mông Cổ độc lập.
Những người được gọi là "nhà văn hóa" này, khi họ nói những điều như vậy, rõ ràng là có một giả thiết tiền đề: Mông Cổ từ thời cổ đến nay thuộc về Trung Quốc, sự độc lập của nhân dân Mông Cổ là bất hợp pháp.

Vậy sự thực như thế nào?
Sự thực là, Ngoại Mông dưới triều Minh và cả thời kỳ trước đó đều không phải địa bàn của người Trung Quốc. Ngoại Mông quy thuận đế quốc Đại Thanh do e sợ sức mạnh của Thanh.

Khi hoàng đế nhà Thanh thông qua "Chiếu thư Thanh đế thoái vị" năm 1912 và đem Ngoại 

Mông "chuyển nhượng" cho Trung Hoa Dân Quốc, thì sự kiện này cũng không được sự đồng thuận của người dân Ngoại Mông. Nhân dân Ngoại Mông hiển nhiên có quyền không chấp nhận. Nói cách khác, người dân Ngoại Mông có quyền độc lập. Lập luận này rất thuyết phục.

Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử - Ảnh 4.
Trong dòng người tản cư về hướng Bắc Kạn, Thái Nguyên sau khi bị quân Trung Quốc tấn công bất ngờ, có hai chị em cõng nhau chạy nạn. Dù đói và mệt, hai em cũng không dám nghỉ ngơi. Ảnh: NAG Trần Mạnh Thường
Một chủ đề chính trong lịch sử Trung Quốc cận đại là: Chống đế quốc cứu nước, độc lập tự chủ. Người Trung Quốc phải phản đối thực dân, phải đấu tranh giành độc lập. Có đúng hay không? Rất đúng.
Nhưng hễ bàn đến nhân dân Ngoại Mông muốn giành độc lập thì những thanh niên "ái quốc" của chúng ta lập tức trở mặt. Tại sao trở mặt? Bời vì những người trẻ "yêu nước" này cho rằng: Chỉ có người Trung Quốc chúng ta mới có thể độc lập. Người Ngoại Mông các anh cũng muốn độc lập? Nằm mơ đi.
Tôi có thể chống đế quốc, anh thì không thể độc lập. Quan có thể phóng hỏa, dân thì thắp đèn cũng không được. Đây chính là luận điệu của một số người "ái quốc" yêu lịch sử.
Người Ngoại Mông từ trước là người Ngoại Mông, sau này thì là người Thanh, nhưng họ chưa bao giờ là người Trung Quốc. Họ cũng có quyền chọn lựa không làm người Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc có quyền đấu tranh giành độc lập, nhân dân Ngoại Mông cũng có quyền đấu tranh giành độc lập. Mọi người cùng là người, người người bình đẳng.
"Tôi có thể chống đế quốc, anh không được độc lập" là một kiểu tiêu chuẩn "kép", là logic cường đạo. Cần phải tỉnh táo nhìn nhận vấn đề này, bằng không người Trung Quốc hễ không cẩn trọng sẽ rơi vào tình thế giống như chủ nghĩa đế quốc mà mình vẫn phê phán.
Một số nhà văn hóa "ái quốc" nếu có thời gian thì nên soi lại mình, nhìn xem người ở trong gương có giống phát xít Nhật năm xưa hay không? Cả hai [nhóm] đều theo chủ nghĩa bành trướng, nhưng kẻ chạy 50 bước cười người chạy 100 bước. Có vậy mà thôi.

Điều nực cười thứ hai:
Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử - Ảnh 5.
Nghiên cứu Chiến tranh nha phiến (1840-1843 và 1856-1860, ND) khó tránh bàn đến một vấn đề: Các biện pháp cấm thuốc phiện của Lâm Tắc Từ (quan triều Thanh, được vua Đạo Quang giao chức Khâm sai đại thần kiêm Tiết độ thủy sư tỉnh Quảng Đông năm 1838, phụ trách chống thuốc phiện - ND) có chỗ nào bất hợp lý?
Nhưng khi bàn đến đây, thường một số người "ái quốc" yêu lịch sử sẽ nhảy dựng lên mà phản đối rằng: "Điều này có gì phải bàn? Người Anh đem quân đánh vào biên giới nước ta là họ sai. Dù với bất cứ lý do nào cũng không được tấn công vào. Một khi đánh vào nghĩa là họ trở thành kẻ xâm lược."
Mỗi khi luận điệu như sau xuất hiện thì một số người không đủ kiến thức sẽ bị chèn ép đến "phát khùng": Nước A không được đưa quân đánh nước B, nếu không thì nước A chính là kẻ xâm lược.
Nhưng khi phản bác lại họ rằng "Nếu căn cứ lập luận của anh thì năm 1979 Trung Quốc đưa quân sang đánh Việt Nam. Như thế Trung Quốc có phải là kẻ xâm lược hay không?", thì đối phương sẽ đổ mồ hôi, không biết đối đáp thế nào, tay chân quýnh quáng, ngượng ngùng trăm bề.
Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử - Ảnh 6.
Hình ảnh thị xã Cao Bằng tan hoang sau khi bị quân Trung Quốc bắn phá. 
Ảnh: NAG Trần Mạnh Thường
Nếu theo lý luận của nhóm "yêu nước" này, bất kể vì lý do gì nước A cũng không được điều binh tới nước B, nếu không sẽ trở thành kẻ xâm lược, thì rõ ràng trong lịch sử Trung Quốc từng đóng vai "kẻ xâm lược" tới n lần.
Năm 1918, chính phủ Bắc Dương (chính phủ trung ương của Trung Hoa Dân Quốc giai đoạn đầu, mà phái Bắc Dương Mãn Thanh do Viên Thế Khải đứng đầu chiếm vai trò chủ đạo trong cục diện chính trị - ND) điều quân sang Nga, tấn công vào lãnh thổ Nga, vậy có phải là xâm lược không?
Năm 1950, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc vượt sông Áp Lục (trong cuộc chiến mà Bắc Kinh gọi là "kháng Mỹ viện Triều": hỗ trợ Triều Tiên chống Mỹ - ND), khiến dân tộc của người ta bị phân tách thì gọi là gì?
Năm 1979, trong [cái mà Trung Quốc gọi là] tự vệ phản kích, quân đội đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam thì gọi là gì?
Đừng quên rằng trong cả hai lần điều binh "xuất ngoại" 1950, 1979, dư luận quốc tế ngập tràn lời chỉ trích. Nếu không tin? Cứ tìm tư liệu xem.
Mọi người có biết không? Trung Quốc-Hàn Quốc xây dựng quan hệ ngoại giao vào năm 1992. Trong cuộc họp báo ở Seoul, Đại sứ Trung Quốc nhiệm kỳ đầu tiên đã vấp phải câu hỏi khó từ phóng viên Hàn khi bị yêu cầu xin lỗi về "hành vi xâm lược" năm 1950. Vậy thử hỏi trong mắt người Hàn Quốc, hành động của Trung Quốc năm 1950 mang tính chất gì? 
Năm 1979 khi quân ta tấn công sang lãnh thổ Việt Nam, thì trong con mắt người dân Việt Nam, chúng ta chính là "kẻ xâm lược". Vào năm ấy, người Trung Quốc chúng ta là "giặc phương Bắc". Chúng ta bị người Việt Nam xem như quân xâm lược. Vì chúng ta đã tấn công vào lãnh thổ của họ.
Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử - Ảnh 8.
Hình ảnh thanh niên Việt Nam hừng hực khí thế ra trận, bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Ảnh: NAG Thomas Billhardt
Trong lịch sử cận đại, Trung Quốc đúng là chủ yếu đóng vai trò người bị hại. Nhưng ở một số thời khắc của lịch sử, chúng ta cũng đóng vai kẻ xâm hại. Chỉ có điều anh không hiểu, không thừa nhận, không dám đối diện mà thôi.
Khi đàm đạo về lịch sử, chúng ta hoàn toàn có thể chỉ trích đế quốc xâm lược, nhưng luận điểm "nước A đưa quân sang nước B thì là kẻ xâm lược" không thành lập. Bởi vì chúng ta cũng từng đưa quân sang quốc gia khác đánh người ta. Tảng đá này nếu không cẩn thận thì sẽ tự đập vào chân mình (ý nói lập luận không thận trọng sẽ bị "gậy ông đập lưng ông" - ND).
Không phải tôi muốn nói mọi người đừng lên tiếng, mà tôi khuyên hãy nói một cách thông minh. Trên thế giới này thực ra không có ai trong sạch hoàn toàn, không bao giờ được nhận định người khác là lang sói, còn chỉ có bản thân là thiên thần.

Điều nực cười thứ ba:
Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử - Ảnh 5.
Một số nhà văn hóa "yêu nước" của Trung Quốc mỗi khi bàn về vấn đề lãnh thổ thì thường dùng một câu nói là "thuộc về Trung Quốc tự cổ đến nay". Thế nào gọi là "tự cổ"? Phải "cổ" đến mức nào mới xem là "cổ"?
Còn khái niệm "Trung Quốc" xuất hiện từ khi nào? Hàm nghĩa của "Trung Quốc" là động hay tĩnh"? Thực ra ở đây còn rất nhiều chuyện phải bàn.
Tôi lấy ví dụ về đảo Đài Loan. Các thanh niên "ái quốc" của chúng ta thích nói nhất là "Đài Loan từ cổ đến nay thuộc về Trung Quốc".
Vấn đề ở chỗ đây là một câu nói dối. Đảo Đài Loan vốn không phải thuộc Trung Quốc từ thời cổ. Có thông tin vào thời kỳ Tam Quốc, quân đội của Tôn Quyền từng tới Đài Loan, nhưng điều này cũng không chứng minh được Đài Loan thuộc về Trung Quốc. Marco Polo còn từng tới Trung Quốc, như vậy cũng chứng tỏ Trung Quốc thuộc về Italia hay sao?
Ngoài ra, thời kỳ triều Minh có lập ra Ti tuần kiểm Bành Hồ nhưng phạm vi chỉ bao phủ quần đảo Bành Hồ, chứ chưa thể bao phủ chính đảo Đài Loan. Người Trung Quốc thi hành biện pháp thống trị hiệu quả trên đảo Đài Loan trên thực tế phải từ thời vua Khang Hy triều Thanh. Trước Khang Hy, người Trung Quốc chưa hề cai trị Đài Loan.
Vậy câu chuyện là thế nào?
Thì ra, đảo Đài Loan trong lịch sử vốn dĩ thuộc địa bàn của dân bản địa. Trên đảo này từng tồn tại các quốc gia kiểu bộ lạc như "Vương quốc Đại Đỗ". Sau này thực dân Hà Lan tới đây và lập chính phủ thực dân. Sau đó nữa thì Trịnh Thành Công (nhà quân sự nổi tiếng cuối triều Minh đầu triều Thanh, sử Trung Quốc ghi nhận là "danh tướng kháng Thanh, anh hùng dân tộc" - ND) chiến thắng người Hà Lan giành lại Đài Loan. Tiếp sau này mới là nhà Thanh đánh bại vương triều họ Trịnh, chính thức thu nạp đảo Đài Loan vào bản đồ Trung Quốc.
Nói cách khác, đảo Đài Loan hoàn toàn không phải là "thuộc về Trung Quốc từ thời cổ" mà do người Trung Quốc chủ động đánh chiếm lấy, thậm chí nói khó nghe một chút là cướp lấy.
Nếu cứ nhất định nói Đài Loan tự cổ thuộc về ai, vậy thì đầu tiên nó phải thuộc về người bản địa trên đảo, sau đó đến người Hà Lan, cuối cùng mới đến người Trung Quốc.
Lịch sử đảo Đài Loan thực ra là một ví dụ rất hay. Nó làm rõ một sự thật lịch sử chính xác nhưng cũng tàn khốc: Trên thế giới này, không có bất kỳ địa bàn nào là thuộc về một quốc gia nào từ thời cổ. Địa bàn của người Trung Quốc cũng như các dân tộc khác trên thế giới đều giống nhau, phải do họ tự chiếm về.
Trong lịch sử, người Trung Quốc vì muốn bành trướng địa bàn của mình đã không ngừng phát động chiến tranh, không ngừng làm diệt vong nước khác, ví dụ như Đại Lý (tỉnh Vân Nam), Nam Việt (địa phận Quảng Đông, Quảng Tây... do Triệu Đà lập nên - ND), Hãn quốc Zunghar (vùng Tây Nam Trung Quốc ngày nay), Trung Sơn (tình Hà Bắc, Trung Quốc), Ba Quốc (tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam)...
Danh sách các quốc gia bị Trung Quốc xóa sổ vẫn còn rất dài. Người Trung Quốc, trong công cuộc bành trướng không ngừng bằng vũ lực, từng bước làm lớn mạnh không gian sinh tồn của mình.
Do đó, các nhà văn hóa "yêu nước" của chúng ta xin đừng cho rằng người khác đều là lang sói, còn chỉ có ta là thiên thần. Tất cả mọi quốc gia và dân tộc trên thế giới này, về bản chất đều ích kỷ. Người Trung Quốc cũng không ngoại lệ. Lời nói tuy trần trụi nhưng rất thực tế.
Không có cái gì gọi là "từ thời cổ đến nay". Địa bàn sinh tồn của loài người trong lịch sử luôn ở trạng thái biến động. Hôm nay của anh, ngày mai là của tôi. Diễn biến lịch sử của bất kỳ vùng địa bàn nào đều có dấu vết để tìm lại.
"Từ cổ đến nay" không phải là chân lý gì, mà chỉ là chốn tị nạn của những kẻ lưu manh. Chỉ thế mà thôi.

Điều nực cười thứ tư:
Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử - Ảnh 10.
Giáo dục lịch sử cận đại của Trung Quốc tuân theo việc nhồi nhét cho con trẻ quan niệm như thế này: Trong lịch sử cận đại, Trung Quốc là một quốc gia yêu chuộng hòa bình, đồng thời là một nước bị hiếp đáp.

Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử - Ảnh 11.
Vũ khí của quân Trung Quốc, gồm súng chống tăng, đạn B41, súng trung liên, đại liên bị bộ đội Việt Nam thu giữ vào tháng 2/1979. Ảnh: NAG Trần Mạnh Thường
Hôm nay, xin cho phép tôi nói một câu thật lòng: Sự thật là bắt đầu từ cuối triều Thanh, Trung Quốc đã bước lên con đường chủ nghĩa đế quốc. Sở dĩ bước không thành chỉ do vấn đề nội loạn, do không nỗ lực. Tôi lấy ví dụ:
Ví dụ thứ nhất: Năm 1882, nhận thấy người Nhật hiện diện ngày càng nhiều ở thuộc quốc Triều Tiên (Joseon - ND) của mình, đế quốc Đại Thanh cảm thấy địa vị vượt trội ở Triều Tiên bị đe dọa bởi đế quốc Nhật Bản nên đã gia tăng kiểm soát đối với Triều Tiên.
Nhà Thanh yêu cầu Triều Tiên ký kết điều ước bất bình đẳng "Chương trình mậu dịch thủy lục giữa thương dân Trung-Triều", trong đó quy định người Trung Quốc ở Triều Tiên được hưởng trị ngoại pháp quyền (quyền được miễn trừ trách nhiệm trước cơ quan tư pháp bản địa, thường là kết quả đàm phán ngoại giao - ND).
Ngay sau đó Thanh triều lại đòi Triều Tiên thành lập một loạt tô giới của nước Thanh tại Incheon, Busan, Wonsan... Đồng thời, đế quốc Thanh tăng quân đồn trú ở Triều Tiên.
Trị ngoại pháp quyền, tô giới, quân đội đồn trú... là những hành vi điển hình của "chủ nghĩa đế quốc". Đừng nói với tôi rằng hành động của Đại Thanh có khác biệt gì về bản chất so với chủ nghĩa đế quốc ở Anh, Nhật Bản.
Ví dụ thứ hai: Năm 1911, tại Mexico bùng phát sự kiện bài xích người Hoa. Triều đình Thanh lập tức ra lệnh tàu tuần dương Hai Chi của Hải quân tới Mexico bảo vệ kiều dân Thanh. Chính phủ Mexico đã chọn thỏa hiệp trước sự uy hiếp từ súng pháo của đế quốc Thanh, sau đó nhận lỗi và bồi thường cho Bắc Kinh.
Vậy, việc lập tức điều quân đội đe dọa nước khác khi kiều dân của mình bị "bắt nạt" trên nước họ là hành động gì? Đây là hành vi điển hình của chủ nghĩa đế quốc. Xin đừng nói với tôi rằng hành động của Đại Thanh có khác biệt gì về bản chất so với chủ nghĩa đế quốc ở Anh, Nhật Bản.
Ví dụ thứ ba: Cách mạng tháng Mười bùng nổ ở Nga năm 1917, nước Nga Xô Viết thành lập. Các cường quốc theo chủ nghĩa đế quốc ở phương Tây quyết định động binh can thiệp.
Năm 1918, chính phủ Bắc Dương của Trung Hoa Dân Quốc điều binh tham gia chiến dịch tấn công Nga của các đế quốc, can thiệp quân sự vào nước Nga Xô Viết. Sự kiện này được lịch sử gọi là "vụ can thiệp Siberia". Mọi người không hề nhìn nhầm, Trung Quốc từng đưa quân vượt qua biên giới Nga, can thiệp vũ trang vào nội chính của Nga. Đó chính là sự thật lịch sử được ghi chép giấy trắng mực đen, chỉ là nó đã bị lãng quên.
Đưa quân sang nước khác, can thiệp hoạt động nội bộ của họ chính là hành vi điển hình của chủ nghĩa đế quốc. Xin đừng nói với tôi là không phải.
Còn có một sự kiện lịch sử mà ai ai cũng biết: Hải chiến Giáp Ngọ (1894). Khác với nhận thức của chúng ta, trận Giáp Ngọ thực tế không phải một cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước, mà là xung đột bùng phát giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản do tranh chấp quyền kiểm soát ở Triều Tiên.
Chí ít trong mắt người dân Triều Tiên, hải chiến Giáp Ngọ chỉ là một cuộc chiến "chó cắn chó" giữa đế quốc chủ nghĩa Thanh và Nhật Bản. Nhật kiểm soát Triều Tiên là sai, nhưng Thanh kiểm soát Triều Tiên có đúng hay không? Đổi góc độ tư duy sẽ thấy ngay.
Anh Nông Văn Ất ở xã Hưng Đạo (Cao Bằng) bật khóc khi trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài về cái chết của vợ con. Năm 1979, chị Nguyễn Thị Hải, vợ anh đang mang bầu 6 tháng cùng bốn đứa con, lớn nhất 10 tuổi, nhỏ nhất 3 tuổi đều bị lính Trung Quốc giết chết rồi ném xuống giếng. Ảnh: NAG Trần Mạnh Thường
Nói thêm một sự thực ít người biết: Khi chiến tranh Giáp Ngọ bùng nổ, mọi người có biết dư luận quốc tế nghiêng về bên nào không? Đáp án sẽ khiến anh phải tròn mắt: Dư luận quốc tế thời điểm ấy ngả theo Nhật Bản. Đa số người phương Tây nhận định đế quốc Thanh vô lý. Thật bất ngờ phải không?
Những ví dụ như trên còn có thể nêu ra rất nhiều. Từ các ví dụ này chúng ta thấy được trong trào lưu chủ nghĩa đế quốc thời kỳ đó, chính phủ Trung Quốc giai đoạn cuối Thanh đầu Dân Quốc đã gia nhập hàng ngũ đế quốc, đồng thời bước lên con đường chủ nghĩa đế quốc.
Những hành động ức hiếp người mà đế quốc thực hiện ở Trung Quốc thì chính phủ Thanh hay chính phủ Bắc Dương đều đã bắt đầu làm, thậm chí còn hành động "ra trò".
Lịch sử nói cho chúng ta biết: Người Trung Quốc "không ăn chay". Đừng bao giờ cho rằng người Trung Quốc đều là "dì Tường Lâm" đầy bạc nhược (nhân vật trong tiểu thuyết "Chúc phúc" của Lỗ Tấn - ND). Người Trung Quốc không phải là không muốn đi con đường đế quốc chủ nghĩa, chỉ là nội loạn nên bất thành mà thôi.
Trong lịch sử, dù là ngay thời cận đại, việc người Trung Quốc ức hiếp người khác là một sự thật lịch sử. Không phải là không có, mà chỉ là anh không biết thôi.

Điều nực cười thứ năm:
Học giả TQ nói về Chiến tranh biên giới 1979 và thói nực cười của người TQ khi bàn chuyện lịch sử - Ảnh 13.
Tôi từng bàn luận với một tài xế taxi ở Thâm Quyến về vấn đề đảo Điếu Ngư (Nhật Bản gọi là Senkaku - ND). Tài xế nói với tôi rằng Điếu Ngư là của Trung Quốc, phải giết sạch đám "tiểu Nhật Bản".
Tôi nửa đùa nửa thật hỏi lại: Vì sao đảo Điếu Ngư là của Trung Quốc? Anh lái xe bị tôi hỏi vậy thì sững lại một chút, rồi đáp: Đương nhiên là của Trung Quốc, còn phải hỏi sao?
Tôi tiếp tục truy vấn: Đúng là tôi không biết, xin được chỉ giáo. Tài xế im lặng rất lâu mới bật ra một câu: Tôi cũng không biết là tại sao, tóm lại [Điếu Ngư/Senkaku] là của chúng ta.
Câu chuyện này đã nhiều năm. Mỗi lần nhớ lại anh taxi Thâm Quyến nọ là tôi lại thấy buồn cười. Anh ta hoàn toàn không phải trường hợp cá biệt.
Nhớ lại những thanh niên "yêu nước" đập phá xe (sự kiện tháng 9/2012, sau khi Nhật quốc hữu hóa quần đảo Senkaku/Điếu Ngư - ND) năm nào, nếu hỏi họ "vì sao đảo Điếu Ngư thuộc về Trung Quốc", tôi tin 99% người được hỏi không đáp được. Cứ đập xe đã rồi tính, đừng hỏi tôi tại sao.
Anh tin rằng tiền trong ví anh là của anh. Tại sao vậy? Bởi vì anh vừa được phát lương. Anh tin rằng căn nhà của anh thuộc về anh bởi vì anh bỏ tiền ra mua nó. Anh tin rằng vợ anh là của anh, bởi vì anh và cô ấy có giấy đăng ký kết hôn.
Khi anh tin rằng bất kỳ một sự vật nào thuộc về mình, anh tất nhiên sẽ nói ra được lý do. Nếu như anh không nêu được lý do, chứng minh anh cũng không dám chắc vật đó thuộc về anh. Mà nếu anh không biết một sự vật vì sao lại thuộc về mình, nhưng trong ngôn hành lại khăng khăng tuyên bố nó thuộc về anh, thì chứng minh tư duy của anh có vấn đề. Đây là bệnh, cần phải chữa trị.
Một trăm năm trước phụ nữ còn bó chân. Người ngoài hỏi vì sao bó chân thì cô cũng không biết, bởi vì mọi người đều nói bó chân là đúng, cho nên cô cảm thấy nó đúng. Khoảng bảy, tám chục năm trước, người dân Nhật Bản xếp hàng tiễn con em rời quê hương đi chinh phục Trung Quốc. Nếu anh hỏi bọn họ vì sao thì họ cũng không biết. Họ chỉ biết rằng "chiến đấu vì quốc gia là đúng". Những hiện tượng này cũng là bệnh, cần được chữa trị.
Những người lý trí một chút nên biết rằng: Nếu anh không hiểu được vì sao đảo Điếu Ngư thuộc về Trung Quốc thì anh nên im lặng. Còn nếu quả thực anh lo lắng vì nước vì dân, vậy anh nên thu thập ngay các tài liệu lịch sử về đảo Điếu Ngư để hiểu rõ ràng quan điểm và chứng cứ của cả hai bên. Sau khi xác tín "đảo Điếu Ngư thuộc về Trung Quốc" rồi, thì lúc đó anh mới đi khắp nơi tuyên bố "đảo Điếu Ngư của Trung Quốc" được.
Vấn đề là khi anh không hiểu về lịch sử của đảo Điếu Ngư mà khăng khăng nói "đảo Điếu Ngư là của Trung Quốc", nhưng khi người khác hỏi lý do anh lại không trả lời được, thì lúc đó trong mắt người ta anh đã thoái hóa thành một con khỉ rồi.
Một người "đủ tư cách", đầu tiên phải là người thành thực, chính trực. Đối với bất kỳ việc gì, anh biết nghĩa là biết, không biết nghĩa là không biết. Một đồ vật gì, thuộc về anh tức là thuộc về anh, không thuộc về anh tức là không thuộc về anh.
Khi anh không dám chắc một thứ gì có thuộc về mình hay không thì đáp án phù hợp nhất là: Tôi không biết.
Còn nếu anh đã không biết nhưng lại nói chắc như đinh đóng cột rằng món đồ thuộc về mình, thì lúc này xét về phương diện tinh thần, anh đã bị xếp vào hàng trộm cướp.

THƠ ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN

Kết quả hình ảnh cho đoàn thị lam luyến thời trẻ
Đoàn Thị Lam Luyến sinh năm 1953, là nhà thơ Việt Nam, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1996), quê quán tại xã Anh Dũng, huyện Phù Tiên nay là huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay, bà là Tổng Thư ký Hiệp hội quyền sao chép Việt Nam.
Tác phẩm đã xuất bản:
-Mái nhà dưới bóng cây (thơ, in chung, 1985);
-Lỡ một thì con gái (thơ, 1989);
-Cánh cửa nhớ bà (thơ, 1990);
-Chồng chị chồng em (thơ, 1991);
-Châm khói (thơ, 1995).
Giải thưởng:
-Giải thưởng cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1989 - 1990.
-Giải thưởng thơ của Nhà xuất bản Hội Nhà văn 1995 (tập thơ Châm khói).
Một số sáng tác thơ tiêu biểu:
Khát vọng; Đa mang; Đà Nẵng; Đàn bà; Đêm cành đa; Đến hang Bồ Nâu học đánh cờ; Đợi; Đừng hứa sẽ cho nhau; Ốc đảo; Ông; Bà ngoại; Bầu trời em yêu; Biển trong ta; Cây sồi mùa đông; Có anh; Cống Hồ; Cõi mơ, cõi thực; Châm khói; Chồng chị, chồng em; Chiếc roi đầu tiên; Chiến tranh; Cơn mưa chờ mong; Dáng hình ngọn gió; Dặn con gái; Em đã khôn rồi; Em chấp nhận lời nói dối; Em gái; Em không là thánh thần; Em yêu nhà em; Gọi Thuý Kiều; Gửi tình yêu; Hát với Thị Mầu; Hoạ bố đánh rơi; Huyền thoại một tình yêu; Khách mời; Không có số được vàng; Kiều có ở trong em; Làm quan; Lửa chiều; Mẹ gà ấp trứng tháng năm; Mẹ vẫn chờ; Nào thì giận nhau đi; Nếu biết trước; Nợ Tiền Đường; Ngọn gió cánh diều; Nhớ Hồ Xuân Hương; No đòn; Phép nhân; Rừng; Sao không phải là anh; Tân và Quý; Tìm lửa; Tìm người ở giữa hội Lim; Tìm về bến Đục; Tôi đang khao khát đi tìm; Tự hát; Tháng ba; Thế chấp; Thiên di; Trên lưng cá voi; Trả cho em; Trốn; Trăng biển; Trinh nữ; Trước mùa đông; Tuẫn tiết; Vân dại; Vầng trăng bỏ quên;

Chồng chị chồng em
Xưa thì chị, nay thì em
Phải duyên chồng vợ, nối thêm tơ hồng  

Được lúa, lúa đã gặt bông
Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa
Mặn mà cũng khác ngày xưa
Bâng khuâng như chửa bao giờ bén duyên  

Gần được ấm, xa được êm
Biết thì ruộng hoá cũng nên mùa màng
Cái dần vục phải cái sàng
Xui cho hai đứa nhỡ nhàng gặp nhau  

Lá bùa từ thuở Mỵ Châu
Lá bài Trọng Thuỷ còn đau đến giờ
Tình yêu một mất mười ngờ
Khiến cho biển cứ khuất bờ trong nhau  

Cái phận trước, cái duyên sau
Nào ai tính được dài lâu với trời? 
Khi vui muốn có một người
Khi buồn muốn cả đất trời hoà chung.  

Đã từ hai mảnh tay không
Kể chi mẹ ghẻ, con chung, chồng người 
Dở dang suốt nửa cuộc đời 
Bỗng dưng hiện một mặt trời trong nhau  

Chị thản nhiên mối tình đầu 
Thản nhiên em nhận bã trầu về têm.


 Kết quả hình ảnh cho hai người đàn bà




Em gái
Em đầy ngộ nhận như tôi 
Cũng yêu chí chết cái người mình yêu 
Cũng tìm những lối phong rêu 
Để rồi bước trật bước trèo uổng công  
Mắt thì thăm thẳm mùa đông 
Trái tim mùa hạ, tấm lòng mùa thu 
Mùa xuân ở phía sa mù 
Mà băng tuyết... đến bao giờ cho tan ?  
Gặp em cơ nhỡ cưu mang 
Em đâu biết đến lỡ làng về sau 
Em đương lấy sóng làm cầu 
Khơi xa làm bến, đáy sâu làm thuyền  
Lấy khao khát để làm yên 
Lấy duyên làm phúc lấy tiền làm khinh 
Rồi ra em giống chị mình 
Lấy bấy nhiêu cái thất tình làm vui.


  Kết quả hình ảnh cho em gái

Khát vọng
Gởi tình yêu vào đất
Được hoa trái đầy cành
Gởi lên trời cao rộng
Sẽ được ngọn sao xanh
Em trao cả cho anh
Một tình yêu nồng cháy
Như một cánh buồm xinh
Hiến mình ra biển rộng
Em đã gởi cho anh
Cả con tim dào dạt
Anh lại trả cho em
Nỗi buồn đau tan nát
Em muốn ôm cả đất
Em muốn ôm cả trời
Mà sao anh ơi, mà sao anh ơi
Không ôm nổi trái tim một con người

Bài hát Khát vọng
Nhạc sĩ Thuận Yến
Thơ: Đoàn Thị Lam Luyến
Ca sĩ: Thanh Lam




Kỷ niệm gặp tác giả, cùng N.A ngày 18-02-2017

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2017

TRẠNG TRÌNH

NguyễnBỉnh Khiêm (1491–1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt, tên tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân am cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công  mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người xứng đáng kế thừa và phát triển ngôn ngữ thi ca dân tộc kể từ sau thời Nguyễn Trãi, góp phần giúp nó đạt đến mức độ hoàn thiện cao dưới thời Nguyễn Du. Hai tập thơ của ông là Bạch Vân am thi tập (chữ Hán)  Bạch Vân quốc ngữ thi tập (chữ Nôm) được coi là thành tựu lớn của thơ văn trung đại Việt Nam, mở đầu cho một dòng văn học chạm chân vào hiện thực, đã mô tả xã hội dưới góc nhìn đời tư và đời thường, là một cống hiến lớn của văn học thời Mạc đối với tiến trình phát triển và hoàn thiện của văn học dân tộc.
Là một người xuất thân từ tầng lớp trí thức quan lại nhưng cả cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao giờ coi việc làm quan là lý tưởng cao nhất của sự nghiệp, cũng như là một nhà nhân đạo chủ nghĩa ông luôn đề cao tư tưởng thân dân trong sách lược trị nước.
Ông cũng được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các tập đoàn quyền lực phong kiến Mạc, Lê-Trịnh, Nguyễn đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với tiến trình của lịch sử dân tộc và từ đó tác động lớn tới quan hệ địa chính trị của cả khu vực Đông Nam Á trở về sau. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Bỉnh Khiêm có khả năng là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một tầm nhìn chiến lược thấu suốt về chủ quyền của đất nước trên biển Đông ngay từ thế kỷ 16. Ông cũng có thể là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam - với tư cách là quốc hiệu của dân tộc - một cách có ý thức nhất thông qua di sản thơ văn của ông còn lưu lại đến ngày nay.

Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, là những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến khoảng năm 2019). Đây là những dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan theo lẽ tự nhiên "thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả". "Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa" Sấm ký, giai thoại và giải đoán chứa đựng nhiều thú vị về một trí tuệ bậc Thầy kỳ tài muôn thuở, nặng lòng yêu nước thương dân và sâu sắc hiếm thấy.
Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu "cảm đề" và 248 câu "sấm ký". Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình.
Sấm ký gắn với những giai thoại và sự thật lịch sử. Nhiều nội dung trong sấm ký hiện đã được giải mã, chứng minh tính đúng đắn của những quy luật- dự đoán học trong Kinh Dịch và Thái Ất thần kinh". Đến nay đã có 36 giai thoại và sự thật lịch sử về Sấm Trạng Trình đã được giải mã.
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc "Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể" (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong".
Theo một số nhà sưu tầm và nghiên cứu, Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được Trạng Trình dự báo qua câu thơ: "Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long". ở câu 1, "đầu Thu" là tháng 7 Âm lịch, "gà" nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện diễn ra, "gáy xôn xao" nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn người. Ở câu 2, "Trăng xưa" nghĩa là "cổ nguyệt" theo Hán tự, ghép lại thành từ "hồ", là họ của Hồ Chí Minh. "Sáng tỏ soi vào Thăng Long" là sự kiện Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba.

Trích Bạc am thi tập:

Cảm hứng

Thái hoà vũ trụ bất Ngu Chu, 
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù. 
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu, 
Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu. 
Trùng hưng dĩ bốc đồ giang mã, 
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu, 
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước, 
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.
 Trương truyền bài thơ này làm ra để tiên đoán việc nhà Lê sẽ trung hưng và nói đến việc họ Trịnh chuyên quyền lấn áp vua Lê. Và những việc của ông tiên đoán điều không sai một mảy.

Trích Bạch Vân quốc ngữ thi tập:
Dại khôn
Làm người có dại mới nên khôn, 
Chớ dại ngây si, chớ quá khôn. 
Khôn được ích mình, đừng rẽ dại, 
Dại thì giữ phận chớ tranh khôn. 
Khôn mà hiểm độc là khôn dại, 
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn. 
Chớ cậy rằng khôn khinh kẻ dại, 
Gặp thời, dại cũng hoá nên khôn.