Nguyễn Tham Thiện Kế
Đêm đó, tôi nằm ngủ cạnh anh
trên hai chiếc giường một ghép đôi. Mười lăm, hai mươi phút là anh lại mê mụ u ú
gọi tên một người nào đó. Lúc thì tên vợ, tên con, tên bạn và một cái tên vần D
lạ hoắc tôi chưa nghe anh nhắc đến bao giờ.
Mùa thu năm 1980. Bệnh viện Việt
Trì. Buổi chiều. Những tàng giã hương, bạch đàn chanh chầm chậm toả hương và xạc
xào rung giữa gió chiều.
Khoác ba - lô tôi băn khoăn đứng
trước cánh cửa sắt sơn xanh tróc gỉ khép chặt của Trung tâm cấp cứu, tự vấn: Lẽ
nào người họa sỹ tên là Hoàng Hữu lại làm việc ở đây. Trong túi áo ngực tôi cộm
lá thư tay của vị chủ nhiệm chính trị sư đoàn, trung tá Phạm Quế
Dương.
Có hơi thở và bước chân sẽ sàng
phía sau lưng, tôi quay lại. Một người đàn ông mảnh mai, không, không phải là
mảnh mai mà là mỏng manh, khiến tôi liên tưởng đến thứ thuỷ tinh trong suốt, tan
giòn, người đó cũng đang cầm trên tay hai bìa đậu gói lá chuối buộc rơm và bó
rau muống úa cằn. Một bàn tay có ngón như búp huệ.
Mũi cao, mắt ngời ngợi, tóc xoà
đen mướt cả vầng trán hào hoa. Chấm nốt ruồi duyên ngay bên dưới cằm. Quần
tuýt-xi xám kẻ ô mờ, áo cộc tay màu mơ chín đậm.
- Em tìm gặp ai? Nếu người ta ở
đây thì anh có thể giúp được.
Nhỏ nhẹ, nhưng âm sắc đầy khí
chất lịch lãm đàn ông. Cảm giác nồng ấm và dịu dàng từ giọng nói khiến tôi chỉ
muốn giãi bày một điều gì đó mà không thể rành rẽ. Vâng, cảm giác đó thật đặc
biệt.
Và không lâu sau tôi hiểu cái
cảm giác đó khởi phát là từ Hoàng Hữu. Kết thúc số phận khi 37 tuổi, giữa lúc
tài năng thật sự phát lộ. Anh đối xử với cuộc đời cũng thật đặc biệt. Người đời
đối xử với anh cũng đặc biệt.
Vầng ngực màu mơ phập phồng,
phập phồng rung động. Phập phồng mà không thấy gió. Không hiểu sao tôi lại lấn
bấn, hai tay hết móc túi áo ngực lại lôi giật chiếc ba lô lộn ra khỏi
vai.
Bỗng như có phép màu, bức thư
trong túi ngực tự dưng liệng nghiêng nằm ngay dưới chân người đàn ông. Anh định
cúi xuống, nhưng không thể, một cái nhăn mặt, khí sắc anh xanh xám.
Anh tựa vai vào cánh cửa sắt.
Hai miếng đậu và bó rau muống trong tay anh cũng rơi bịch xuống. Trong lúc tôi
bối rối đỡ anh, thì anh nhắm mắt. Cái nhắm mắt chỉ một phần mười
giây.
- Mình chính là Hoàng Hữu
đây...
Chắc anh đã nhìn thấy chữ ghi
trên phong bì. Hoàng Hữu nắn túi quần tìm chìa khoá. Bệnh viện đã trang bị hẳn
cho anh cả chìa khoá trung tâm. Quả là bệnh nhân đặc biệt...
Phòng bệnh nặng có bốn giường.
Nhưng chỉ có mình Hoàng Hữu. Góc giường đơn trải tấm chăn dạ màu cỏ úa mòn trơ
cốt sợi trắng, sực mùi tân dược. Chồng bản thảo xếp cao. Những phác thảo
bìa.
Bản thảo mấy cái truyện ngắn, và
bản thảo tập thơ KHÓI ẤM SAU CÂY đang quá trình tập hợp. Một tập thơ dư vị xa
xót, có nhiều bài đề tặng người thân và bạn bè như là lời xin lỗi hay chia tay
sớm. Tôi chú ý đến chiếc bìa anh vừa mới vẽ, tập kịch NGUYỄN TRÃI Ở ĐÔNG QUAN
của Nguyễn Đình Thi.
Toàn bộ nền đen kịt và bảng lảng
vân khói xám mờ chìm trong nền đêm quánh ấy là ngọn huyết lạp đỏ chói cháy gần
cạn mình, ròng ròng nước mắt đỏ... Nghe nói Nguyễn Đình Thi đã rất thích chiếc
bìa Hoàng Hữu vẽ, nhưng rồi không thấy nhà xuất bản đó dùng...
Những kỷ vật còn lại của nhà thơ Hoàng Hữu
Qua khung cửa
sổ, Hoàng Hữu bỗng vẫy tay thân tình:- Em ra đây một lát
đi...
Chậu men lưng nước máy. Khăn mặt
trắng. Xà phòng Ngọc Lan đã được bày lên bệ cửa sổ từ lúc nào. Trước khi tôi rửa
mặt, Hoàng Hữu san nước bớt ra chiếc bi đông nhỏ. Anh nghiêng cốc nước qua những
ngón tay mảnh mướt trắng xanh của mình xuống khóm hoa hồng trồng chiếc xô nhựa
đang vươn lên cao sắp tới gờ bệ cửa sổ, đã đôi nụ.
Tôi đã từng ngắm các thầy tu mỗi
buổi sáng, buổi chiều họ cũng tưới hoa bằng thứ nước mà họ sẽ dùng rửa mặt. Và,
gương mặt họ cũng thanh thản, tự tin như là gương mặt Hoàng Hữu lúc
này...
Trở vào phòng loay hoay một lúc
chẳng hiểu Hoàng Hữu lôi được ở đâu ra mấy quả chuối tiêu trứng cuốc, nhúm lạc
rang vẫn đủ độ giòn bày lên cái khay sơn mài sậm màu rượu vang. Anh bây giờ mới
mở lá thư tay ra đọc. Đọc xong anh bặm môi hỏi, như để củng cố thêm một quyết
tâm nào đó.
- Em có mang theo bản thảo ở đây
không?
Tôi dạ vội gật vội rồi gần như
là dâng lên cho Hoàng Hữu tập bản thảo nặng trĩu đánh máy trên giấy mặt nhám mặt
nhẵn. Anh nắm hai cánh tay tôi lắc lắc mà rưng rưng. Nhưng hai cánh tay tôi
không nhúc nhích mà chỉ có tay anh chuyển động.
- Em trẻ thật đấy. Trẻ thật là
trẻ...thích thật.
Chợt nhớ năm ấy, nhà văn Nguyễn
Tuân lên thăm Phú Thọ, trong bữa tiệc UBND tỉnh tiếp danh sỹ, tôi và nhà văn Văn
Chinh lúc bấy giờ cũng là trẻ nên được ông cho ngồi cạnh. Nguyễn Tuân cầm cái
ba-tong nổi tiếng gõ âu yếm vào đầu hai chúng tôi mà rằng:
- Ôi là là cái... bọn trẻ này.
Ta thấy ghét tuổi trẻ làm sao...Ta ghét thật đấy.
Bây giờ tôi không còn trẻ nên
mới thấm cái cách thèm trở lại và chiêm ngưỡng tuổi trẻ của một người ốm như
Hoàng Hữu và một người già như Nguyễn Tuân.
Người họa sĩ nắm tay che miệng
ghìm cơn ho húng hắng.
- Để kịp có bìa sách em mang về
đơn vị sáng mai, thì anh phải vẽ đêm nay mới kịp được. Đúng ra là anh phải đọc
xong bản thảo mới vẽ hay được. Thôi để về nhà anh vậy. Đã lâu anh không có lý do
để về nhà... - Hoàng Hữu ngập ngừng - Anh em mình cùng nấu cơm...
Tôi cầm hai miếng đậu thắc
mắc.
- Hôm nay không có em thì anh
vẫn bỏ cơm viện cơ mà...
Anh cười khẽ, nhìn
xa.
- Anh ra cổng viện hóng mát,
thấy người ta tíu tít mua thức ăn tối về nhà, nên bị cuốn mua theo. Mua xong mới
biết chẳng thể làm gì... Cũng may nó như điềm báo là sẽ có khách là em đấy
thôi...
Anh buông thõng vai, mắt ướt.
Tôi bỗng lo lắng cho anh nhưng không dám hỏi. Nhưng sau thì biết, chị Minh, vợ
anh là giáo viên Trung văn khi đó không có việc phải chuyển sang học tiếng Nga ở
tận Trâu Quỳ.
Chị đi học với một suất lương
giáo viên mà mang theo hai con nhỏ. Hoàng Hữu bị bệnh tim ở nhà, tất cả trông
cậy vào mỗi vòng tay bè bạn từng đận, từng khúc.
Lúc thì vợ chồng bác sỹ Thắng
Phượng bác sỹ Huy Mai, lúc nhạc sỹ Cao Khắc Thuỳ, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, đặc
biệt là họa sĩ Nguyễn Đài, người ngày ngày tháng tháng cùng mâm, cùng giường với
Hoàng Hữu.
Từ bệnh viện về khu tập thể
trường cấp III Việt Trì vòng vo cũng chừng nghìn mét đường chim bay. Mỗi bước đi
trung du lúc cao lúc thấp. Qua một xóm đồi. Qua khe ruộng cạn. Ngang vạt rừng
sót trám đen, lưa thưa lau xám, lối sỏi tím chìm giữa hoa cỏ may khía sâu vào
sườn đồi hoa trinh nữ.
Không nhớ là anh đã phải ngồi
nghỉ bao nhiêu lần. Bên khóm sim cằn, hoa bừng tím cả một khoảng trống, người
họa sĩ định đưa tay hái một bông, không hiểu sao lại ngừng tay. Anh ngắm khóm
sim, như lần đầu thấy nó.
- Em thấy lạ không. Khóm hoa này
nếu không bị ai đó cắt làm củi, thì tự nó có thể sống tới cả trăm năm. Nó cũng
là sự sống, ta cũng là sự sống sao khác xa nhau thế.
Sự sống của con người, có tình
yêu, có ý thức vậy mà ngắn ngủi vô cùng so với chỉ một loài cây dại- Anh không
nhìn tôi nói tiếp - Thời gian của anh tồn tại ở dạng con người ý thức đã sắp kết
thúc rồi. Tim anh đã mổ được hơn mười năm...
Bây giờ mới nhận ra là còn bao
nhiêu việc phải làm và bao nhiêu người mình còn nợ họ. Anh đang đếm từng giây
từng phút sống vuột qua bằng chính nhịp đập trái tim mình...
Tò mò tôi hỏi anh có vẽ được
nhiều tranh, làm được nhiều thơ không. Thơ và tranh anh tôi đã biết đến nhiều
trên tạp chí Sáng tác mới, Hoàng Hữu lắc đầu khẽ.
- Anh lấy đâu sức mà vẽ tranh
lớn. Nếu có sức thì cũng không có tiền. Tạng anh lại chỉ hợp với đồ họa và tranh
thuốc nước, sơn dầu khổ nhỏ, làm thơ nhì nhằng. Tranh, tượng, văn xuôi thì có
thể nói đến số lượng. Thơ thì không.
Thơ chưng cất từ nỗi đau mà ra.
Người ta vẫn có thể làm thơ không phải từ nỗi đau. Nhưng đó chỉ là sự phô diễn
kỹ thuật ngôn từ và quảng cáo tình cảm như bán thuốc dạo... Những bài thơ hay có
thể nên đặt bài vị mà thờ.
Tôi thận trọng khom lưng, đặt
Hoàng Hữu xuống trước cánh cửa căn phòng quấn xích xe đạp khoá bằng khoá Viro.
Phải, tôi đã cõng anh lội qua nương nước tưới lúa và vượt con dốc đất lên khu
tập thể giáo viên dựng ngược 45 độ dư. Tôi đã cảm thấy cái rùng mình bất lực của
anh trước con dốc, nhưng cũng phải khó khăn lắm tôi mới thuyết phục được
anh.
Cảm giác về trọng lượng cơ thể
anh trên lưng tôi chỉ như bó rạ hong nắng lâu, nhưng nhịp đập trái tim anh thì
quằn quại như con chim bị nhốt trong hộp giấy. Mà, bất cứ lúc nào con chim cũng
có thể ngừng đập cánh hoặc hộp giấy sẽ bị vỡ toạc để con chim thoát ra bay
đi...
Hai anh em còn đang thở dốc thì
ai đó đã kêu váng như loa phóng thanh phường.
- Ối mọi người ơi, chú Hoàng Hữu
lại bị đi cấp cứu rồi. Ai ở gần lại đây mau cứu người đi...
Tức thì người ở đâu đó táo tác
dồn đến vây lấy hai anh em. Nhưng khi hiểu ra thì ai cũng xuýt xoa:
- May đấy, vì thấy có người
cõng cứ ngỡ chú lại bị ngất. Tuần trước mà không có chú Nguyễn Đài ngủ cùng cõng
chạy thì cũng nguy to...
Căn phòng đầu hồi, cánh gỗ sơn
lá cây già phai nắng, lá dây sắn dây khô bạc phủ kín ngói, dãy thứ hai liền con
dốc là nơi ở của gia đình Hoàng Hữu. Mảnh vườn tăng gia trước cửa, rau muống,
rau đay, ngót, ớt, mùng tơi.
Và, hai cây đu đủ, một cao vóng,
một thấp tè, quả lúc lỉu, lá xơ xác. Hai cây đu đủ cứ như thể đã đi vào thơ
Hoàng Hữu với vị ngọt mát lành tặng hai con gái anh.
Khoảng 20 mét vuông, kể cả phần
lấn ra theo mái trước mái sau, là nơi ở và mưu cầu hạnh phúc của bốn con người.
Bếp than quả bàng. Bếp đun dầu. Chuồng gà. Ba chiếc giường một. Hai giường kê
liền phía trong sau tấm vải sợi hóa học.
Một giường kê ngoài sát cửa. Một
bàn, một ghế. Bốn bóng đèn tròn ám khói. Ảnh cháu Trang, cháu Chi trong vòng tay
bố mẹ... Bức tranh "Trăng" treo duy nhất trên tường. Toàn thể là gam màu xám
thăm thẳm trắng, vầng trăng mờ mây che, nhưng người xem vẫn cảm giác được ánh
trăng trong suốt u buồn chảy tràn mặt đường cát trắng hun hút về chân núi
xa.
Trên giá sách tận dụng gỗ thông
bao bì hầu như là những tập sách được Hoàng Hữu vẽ bìa. Nhà thờ Đức Bà Pa-ri.
Những người khốn khổ. Rừng Nga. Muối của đất. Bông hồng vàng. Và bộ tự truyện
của Ma - xim Goócxki....
Chẳng rõ bằng cách nào đó tôi
cũng giúp anh nấu xong bữa cơm tối. Trên cái giường một, chiếc chiếu quăn gập,
thủng giữa tôi và anh ngồi đối nhau qua mâm cơm. Hoàng Hữu nhai trệu trạo ăn như
theo một mệnh lệnh nào đó. Từng cọng rau. Từng hạt cơm gạo hẩm cõng bo bo. Từng
vụn đậu rán, cá khô được anh nâng niu gắp cẩn thận như đang dùng bút tỉa đưa lên
miệng vừa nhai vừa ngẫm nghĩ.
Chống đũa lên thành chiếc mâm
nhôm lâu ngày không dùng lấm tấm chấm vết sùi, Hoàng Hữu ngậm ngùi.
- Tất cả những gì mình có hôm
nay, từ cái mâm này đến việc lấy vợ sinh con hết thảy đều nhờ vào bạn
bè...
Hồi đó để làm đám cưới cho Hoàng
Hữu tại nhà vợ ở Vĩnh Yên, họa sĩ Nguyễn Đài, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã phải
đạp xe xuống các huyện xin mua được hơn chục bao thuốc Nhị Thanh, hai cân kẹo.
Một người bạn làm bảo vệ ở Văn phòng Chính phủ thì nhờ người quen kiếm được
chiếc thủ lợn, lễ mễ đạp xe từ Hà Nội lên.
Bố đẻ Nguyễn Đài, là cụ Quỳnh
lúc đó đương chức Phó Bí thư Thị ủy Vĩnh Yên về nhà riêng bắt thêm cho hai con
gà. Trung úy nhà thơ Hữu Thỉnh đạp xe từ núi Đanh ra góp mấy cân bí đao tăng
gia, một con gà và mấy cân gạo nếp cái hoa vàng.
Tuy đã có lúc anh xót bạn kêu
toáng: Chúng mày hùn Hoàng Hữu lấy vợ để cho nó chết sớm à" thì Nguyễn Hữu Nhàn
vặc lại: "Thế ông không định cho nó biết mùi đời, chết mà vẫn trai tân à". Một
đám cưới mà phía nhà trai không ai dám ở lại nhà gái ăn cơm vì lo
thiếu.
Hoàng Hữu và chị Minh đến với
nhau qua mai mối của nhà thơ Nguyễn Cảnh Tuấn. Ai cũng phấp phỏng lo chị Minh sẽ
không chấp nhận chàng họa sĩ ốm yếu, đã mổ tim xanh như tàu chuối dựng. Xem ra
chàng yêu đã nhiều, nhưng chỉ một phía chàng thôi.
Không ngờ chị Minh vừa gặp anh
đã cảm mến. Bạn bè mừng vui, giục phải làm đám cưới ngay, đề phòng dèm pha. Hơn
nửa tháng chàng nàng gặp nhau tâm sự, mà khi bị Nguyễn Hữu Nhàn cật vấn rằng
tình cảm đã phát triển đến đâu rồi, Hoàng Hữu hổn hển đáp.
- Thì tôi vẫn ngồi gần Minh một
khoảng cách rất lịch sự khoảng mấy gang tay.
Cao Khắc Thuỳ ngán
ngẩm.
- Mạ già ruộng ngấu còn phải cày
bừa gì nữa mà cứ án binh bất động. Phải hành động, hành động cho đối phương
không kịp trở tay thì mới được...
Nguyễn Đài sợ bạn cuống liền an
ủi.
- Thì cũng phải có thời gian,
cho Hữu nó từ từ nhập cuộc...cá cắn câu rồi...
Thế rồi hàng ngày trước khi
Hoàng Hữu đi gặp người yêu lại được ba nhân vật khả kính nói trên mở khoá tư vấn
chiếm lĩnh tình yêu. Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn tuy không lăn lộn tình trường bao
lăm, nhưng lại mách nước rất cụ thể.
- Để tiếp cận thì bước đầu tiên
là giả vờ phủi bụi trên áo, trên tóc nó đã. Sau thấy nó im thì mới dấn tiếp như
nắm tay, ôm vai nó hiểu không... nó im nữa thì mới được sờ ti...
Thế rồi một hôm Hoàng Hữu trở về
nhảy cẫng giữa sân Hội hoan hỉ thông báo.
- Thành công rồi. Thành công rực
rỡ rồi....
Mọi người hỏi thành công đến mức
độ nào, Hoàng Hữu thì thầm.
- Tôi đã nắm được tay nó
rồi....
Ông Chủ tịch hội Cao Khắc Thuỳ
lại chẹp miệng.
- Kiểu này thì phải vài năm Hữu
mới chiếm lĩnh được bộ tư lệnh tiền phương, chưa nói đến Tổng hành dinh tối
cao...
Đêm đó, trên chiếc giường một
Hoàng Hữu nửa bò nửa quỳ vẽ xong chiếc bìa sách có in truyện ngắn đầu tiên của
tôi. Tập PHẤN THÔNG BAY. Màu bìa chính là màu lá thông non, và những chấm nâu,
tựa cánh chim tựa phấn hoa, chữ ngay ngắn.
Nửa tháng sau, bản thảo tập thơ
NGƯỠNG CỬA MÀU XANH, do nhà thơ Hữu Thỉnh nhuận sắc, biên tập kỳ công, rồi đặt
luôn cả cho tên tập cũng được Hoàng Hữu vẽ bìa trên chiếc giường một.
Họa sĩ đã lấy tứ từ câu thơ của
Hữu Thỉnh gài vào cho một bài thơ của một tác giả chiến sĩ: Trái tim hát khi tôi
thành chiến sĩ để mà vẽ cái khoá nhạc chỉ với hai màu xanh sáng và tím hoa mua
trên nền trắng trong trẻo...
Đêm đó, tôi nằm ngủ cạnh anh ở
hai chiếc giường một ghép đôi. Mười lăm, hai mươi phút là anh lại mê mụ u ú gọi
tên một người nào đó. Lúc thì tên vợ, tên con, tên bạn và một cái tên vần D lạ
hoắc tôi chưa nghe anh nhắc đến bao giờ. Sau thì tôi biết đó là một phụ nữ vô
cùng quan trọng trong sáng tác của anh.
Đi dự trại viết của Hội VHNT
Vĩnh Phú, cứ như có sức hút nào đó kéo tôi đến với anh ở Trung tâm cấp cứu hàng
ngày. Hôm đó Chủ nhật, anh ngồi trên giường trong tay nâng niu lá thư gấp sáu
nhỏ như bàn tay con trẻ. Lá thư không có tên người gửi đề ngày 20/6/73, nghĩa là
anh đã nhận nó được bảy năm.
Ngoài những lời thăm hỏi, thì
còn một bài thơ do thiếu phụ đó tặng Hoàng Hữu. Đó là cú hích tạo nên mạch cảm
trong bài thơ nổi tiếng Hai nửa vầng trăng. Ba câu thơ: Chữ dê hoa (D) như vầng
trăng sẻ nửa/Tên anh như nửa trăng mờ tỏ/Ai bỏ quên lặng lẽ sáng bên
trời...
Chính là Hoàng Hữu muốn nhắc đến
tên bố mẹ đặt là Nguyễn Hữu Dũng. Còn tên người thiếu phụ trong thơ cũng bắt đầu
bằng chữ dê hoa (D). Hai nửa chữ dê hoa (D) ghép lại thì thành vầng trăng tròn.
Vậy mà hai nửa vầng trăng mãi mãi vẫn là hai nửa xa cách. Về công tác ở Vĩnh
Phú, anh em trêu là hữu dũng vô mưu nên anh mới đặt bút danh là Hoàng
Hữu.
Sau khi Hoàng Hữu mất, nhân có
cuộc thi thơ ở báo Văn Nghệ, Cao Khắc Thuỳ, Nguyễn Hữu Nhàn, Nguyễn Đài liền gửi
Đăng Bảy và Phạm Tiến Duật một số di cảo thơ của anh trong đó có Hai nửa vầng
trăng tham dự. Kết quả ra sao thì mọi người yêu thơ đều biết.
Đã có hàng ngàn người thuộc và
chép bài thơ đó vào sổ tay. Và bây giờ thì bài thơ đó vẫn chẳng hề phai nhạt sự
làm người ta đau về hạnh phúc và tình yêu lứa đôi...
Đến tận lúc sắp kết thúc số
phận, Hoàng Hữu vẫn thổn thức sống. Và cũng năm ấy Hoàng Hữu bỗng mê vật vã một
thiếu nữ học trung học nghệ thuật, chị M H. Chị có giọng nữ trung mượt ấm sang
trọng, mặt hiền, người đẹp mặn mà.
Suốt cả tháng ròng hôm nào cũng
vậy không Nguyễn Đài, thì tôi hoặc Nguyễn Hữu Nhàn đèo xe đạp đưa Hoàng Hữu lần
tìm vào chỗ trường nghệ thuật sơ tán ấy ngắm người đẹp mươi phút thì anh mới
chịu được. Trong đời không ít lần anh đã yêu một đầu đòn gánh.
Nhưng chị M.H đã có người yêu.
Cả ba liên lạc viên đều biết điều ấy, chỉ có Hoàng Hữu là không. Bởi chúng tôi
không ai nỡ nói ra và cả chị M. H cũng không dám từ chối quyết liệt tình cảm của
anh dành cho chị. Chị quá dịu dàng. Còn Hoàng Hữu thì quá chân thành si mê như
cậu học trò mười lăm. Hai người giữ một khoảng cách nhất định mà ngắm nhau
suông.
Để làm le với người đẹp, Hoàng
Hữu đã đề nghị đổi cho anh chiếc áo bộ đội sơ mi vải Ba Lan màu hạt dẻ để mặc
cho khung dáng vững chắc. Còn tôi thì mặc chiếc áo vải mỏng màu mơ chín hôm
nào.
Hôm sau anh nhờ Vân Trang vào
chụp chân dung, chiếc áo anh mặc cũng chính là chiếc áo của tôi. Nên trong tấm
ảnh đi đầu xe, anh mặc áo bộ đội, trên ve áo có đính bốn móc chỉ để cài quân
hàm.
Thời gian này anh viết truyện
ngắn DƯỚI CHÂN NÚI CŨ và bài thơ KHÓI ẤM. Hai tác phẩm này Hoàng Hữu đều đề tặng
M.H. Trong bài khói ấm có những câu như là điềm báo. Trái tim đập giữa phập
phồng lau cỏ hoặc Anh trở lại tìm về nơi giông dài ngọn gió/để sắc màu điềm tĩnh
trước nhà em...
Anh đã đi hết, vắt kiệt hết cái
mà số phận đã ưu ái dành cho nhiều hơn người khác, đó là tài năng. Hơn ai khác
anh biết trước cái kết cục sẽ đến với mình bất ngờ về khoảnh khắc, trong quỹ
thời gian đã được giáo sư Tôn Thất Tùng, người trực tiếp mổ tim cho anh thông
báo.
Và anh đã có đủ ngộ thấu đáo lẽ
đời tiết kiệm từng giây phút được sống của mình trên trái đất bằng cách làm sao
cho nó có hiệu quả nhất...
Trong lần tôi dìu anh đi dạo
trên con đường cỏ lau và sim mua dọc đường tàu hoả, nhìn lau xám lay động bên
những nấm mộ nép dưới rừng trám đen, Hoàng Hữu thở dốc hướng vào tôi mỉm
cười.
- Chỉ khi nào con người được ấn
định trước thời gian cụ thể về cái chết, thì mới tự thức tỉnh được giá trị thực
sự của sự sống. Người ta sẽ dốc sức làm việc và sống cho có ý nghĩa đến giây
phút cuối cùng... Chỉ tiếc rằng những người khoẻ mạnh đôi khi có nghĩ đến điều
ấy, nhưng đó chỉ là những hạt mưa rơi trên lá sen...
Tháng 5 năm 2007
Họa sỹ, nhà thơ Hoàng Hữu, tên thật là Nguyễn Hữu Dũng sinh 24/9/1945 tại Tiên Lãng-Hải Phòng. Mất 30/12/1981 tại Phú Thọ. Ông đoạt giải B cuộc thi thơ Tuần báo Văn nghệ (1981) và nhiều tặng phẩm, giải thưởng trong nước và quốc tế về đồ họa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét