Với những cái đầu nóng, thực hiện giải pháp nửa vời và
không quyết liệt là không thể, mà còn thúc đẩy quốc gia mang tư tưởng
nước lớn muốn ‘dạy một bài học’ cho nước khác tiến hành cuộc chiến tranh
ác liệt hơn. Moskva đã quyết định hành động rất cứng rắn và quyết liệt
ngay từ ban đầu.
Vào năm 1979, Liên Xô đã khẳng định kiên quyết với những thế lực đầy tham vọng: Quân đội và nhân dân Xô Viết sẵn sàng sử dụng các giải pháp cuối cùng để thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình với Việt Nam.
Trong rất nhiều trường hợp khác nhau, các nước phải tiến hành nhưng
hoạt động quân sự nhằm giải quyết những vấn đề xung đột chính trị mà các
biện pháp ngoại giao thông thường không thể giải quyết vấn đề. Nhưng
trong lịch sử đấu tranh, có rất nhiều những tình huống mà những xung đột
căng thẳng giữa các nước trên thế giới có thể được giải quyết bằng
phương pháp phô diễn sức mạnh quân sự và khả năng sẵn sàng sử dụng sức
mạnh đó.
Hơn một lần Liên bang Xô viết đã sử dụng khả năng biểu dương sức mạnh
quân sự để ngăn chặn những thảm họa chiến tranh. Một trong những tình
huống đó là năm 1979, Kremlin đã có những hành động quyết liệt biểu
dương sức mạnh của các lực lượng vũ trang và khả năng sẵn sàng sử dụng
sức mạn đó để giải quyết những mâu thuẫn chính trị. Và chính sự quyết
liệt đó đã ngăn chặn một cuộc chiến tranh lớn ở khu vực Đông Nam Á.
Diễn tập bắn đạn thật – là những hoạt động huấn luyện chiến đấu của
các lực lượng vũ trang các nước với mục đích làm tăng khả năng sẵn sàng
chiến đấu, khả năng điều hành tác chiến và liên kết phối hợp, đồng thời
cũng kiểm tra thử nghiệm vũ khí trang bị phương tiện chiến tranh trên
chiến trường.
Nhưng trên thực tế diễn tập có bắn đạn thật là biểu dương sức mạnh
quân sự nhằm mục đích răn đe, ngăn chặn hoặc thể hiện khả năng sẵn sàng
chiến đấu của lực lượng vũ trang. Đồng thời, diễn tập cũng là phương
thức nhằm đưa các đơn vị quân đội vào trạng thái sẵn sàng tiến hành một
cuộc chiến tranh.
Một trong những yếu tố nhanh chóng làm tỉnh lại những nhà chính khách
đã mê muội bởi tham vọng chính trị, với sự tự tin thái quá về khả năng
của mình, đó là cho họ thấy được sức mạnh quân sự mà trong trường hợp họ
vẫn không tự nhìn nhận lại tình huống, họ sẽ phải đối đầu trực diện.
Thực hiện được điều đó thì phô diễn sức mạnh quân sự phải thật sự hiệu
quả.
Kinh nghiệm phô diễn sức mạnh quân sự nhằm đạt được mục đích chính
trị, thông thường nước Mỹ hay nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn. Nhưng
trong thực tế đấu tranh trên thế giới, Liên bang Xô viết vào năm 1979
đã triển khai sức mạnh quân sự của mình một cách quyết liệt và hiệu quả,
khiến cho một cường quốc trên thế giới như Trung Quốc buộc phải chùn
tay, còn cả thế giới nín thở với sự khủng khiếp chờ đợi ngày “D”.
Xung đột biên giới năm 1979
Sau khi quân tình nguyện Việt Nam cùng với các lực lượng yêu nước
Campuchia tiến hành các chiến dịch quân sự chống lại lực lượng quân sự
Khơ me Đỏ và chính quyền Pol Pot. Sức ép mọi mặt lên nhà nước Việt Nam
ngày càng tăng cả về ngoại giao, kinh tế, quân sự…
Trên tuyến biên giới phía bắc Việt Nam, lực lượng thù địch đã triển
khai một tập đoàn quân: Thê đội 1-15 sư đoàn bộ binh, thê đội 2-6 sư
đoàn dã chiến. Dự bị chiến dịch có 3 sư đoàn. Tổng thể cụm quân lực
triển khai các hoạt động tác chiến trên biên giới có thể tăng cường đến
29 sư đoàn. Rạng sáng ngày 17/ 2, đội quân khổng lồ này ồ ạt tấn công
trên toàn tuyến…
Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 chính thức nổ ra…
Liên bang Xô viết quyết định thực hiện sứ mệnh vô cùng khó khăn trong
điều kiện tình huống phức tạp và nguy cơ bùng nổ chiến tranh trên diện
rộng – thiết lập lại sự công bằng và hòa bình trên bán đảo Đông Dương
bằng phương pháp biểu dương sức mạnh quân sự.
Nhưng với những cái đầu nóng, thực hiện giải pháp nửa vời và không
quyết liệt là không thể, mà còn thúc đẩy quốc gia mang tư tưởng nước lớn
muốn ‘dạy một bài học’ cho nước khác tiến hành cuộc chiến tranh ác liệt
hơn. Moskva đã quyết định hành động rất cứng rắn và quyết liệt ngay từ
ban đầu.
Cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự thế giới
Các hoạt động biểu dương sức mạnh và ý chí được quyết định vào đầu
tháng 3/1979. Trong giai đoạn từ ngày 12 đến 26/3 (với mục đích tạo áp
lực quân sự lên Trung Quốc do những hành động gây chiến chống lại nước
láng giềng) theo quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản
Liên xô, trên tất cả các quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh
thổ Mông Cổ và trên biển Thái bình dương tiến hành cuộc diễn tập hiệp
đồng quân binh chủng và diễn tập hải quân có sử dụng đạn thật.
Trong cuộc diễn tập lớn nhất trong lịch sử quân sự có sử dụng lực
lượng của 20 sư đoàn binh chủng hợp thành và không quân. Quân số tham
gia diễn tập lên đến 200 nghìn quân nhân, 2.600 xe tăng, 900 máy bay và
80 chiến hạm. Cuộc diễn tập bắt đầu từ thời điểm động viên lực lượng và
đưa các đơn vị thường trực chiến đấu từ thường xuyên lên toàn bộ. Từ lực
lượng dự bị động viên điều động 52 nghìn quân nhân dự bị động viên hạng
1, động viên từ các cở sở thuộc ngành Nông nghiệp hơn 5 nghìn xe ô tô
các loại.
Những đợt diễn tập lớn nhất được thực hiện tại Mông Cổ, trong diễn
tập có sự tham gia của 6 sư đoàn Bộ binh Cơ giới và Tăng thiết giáp, 3
trong số các đơn vị được điều động từ Siberia và Zabaikalia. Ngoài ra
trên lãnh thổ Mông Cổ tham gia diễn tập có 2 lữ đoàn, 3 sư đoàn không
quân chiến trường, các đơn vị và phân đội đặc chủng tăng cường.
Ngoài ra, cũng trong giai đoạn đó, đồng thời tiến hành các hoạt động
diễn tập thực binh của các lực lượng trên vùng Viễn Đông và Đông
Kazakhstan, có sự tham gia của các đơn vị binh chủng hợp thành và các
đơn vị không quân, phối hợp với lực lượng Biên phòng.
Trong tiến trình diễn tập đã thực hiện nội dung liên kết phối hợp
giữa các lực lượng. Các đơn vị và phân đội trong điều kiện khí hậu và
môi trường khắc nghiệp đã tiến hành cơ động trên khoảng cách rộng lớn,
từ Siberia đến Mông Cổ (hơn 2.000 km). Các đơn vị được tổ chức biên chế
thành đơn vị chiến đấu ngay trên tầu hỏa, được vận chuyển bằng đường
không.
Cụ thể, sư đoàn đổ bộ đường không từ Tula được vận chuyển vào khu vực
Chita trên quãng đường dài 5,5 nghìn km bằng máy bay vận tải quân sự
một đợt bay trong thời gian 2 ngày. Các trung đoàn máy bay chiến đấu từ
lãnh thổ của Ucraina và Belarusia được cơ động trực tiếp đường không đến
các sân bay của Mông cổ.
Trên những khu vực biên giới với Trung Quốc, các đơn vị phòng thủ
biên giới triển khai phác thảo các kế hoạch tổ chức phòng ngự, đánh chặn
các đòn tấn công xâm phạm khu vực biên giới, kế hoạch phản kích các đòn
tấn công và kế hoạch phản công.
Trên các vùng biển phía Đông và Nam Trung Quốc có gần 50 chiến hạm
của hạm đội Thái Bình dương, trong đó có 6 tầu ngầm, tiến hành các hoạt
động sẵn sàng chiến đấu và đồng loạt triển khai diễn tập các hoạt động
tác chiến nhằm tiêu diệt lực lượng hải quân đối phương. Riêng vùng biển
Primorie tiến hành diễn tập đổ bộ đường biển.
Một trong những mối quan tâm đặc biệt là kinh nghiệm triển khai các
cụm quân công kích chủ lực của Lực lượng Không quân trên biên giới với
Trung Quốc, do đặc thù có ưu thế vượt trội về không quân, như một phương
tiện tác chiến tầm xa, “phi tiếp xúc”. Trong giai đoạn ngày nay sẽ là
yếu tố quan trọng làm nguội đi những cái đầu nóng của người láng giềng
đầy tham vọng mà không tự lượng sức mình.
Theo các kế hoạch diễn tập, đã tiến hành tổ chức biên chế các cụm chủ
lực hàng không công kích của các trung đoàn không quân trên các quân
khu gần biên giới Trung Quốc. Các tập đoàn máy bay chiến đấu chuyển sang
vị trí đóng quân cố định trong khu vực miền Đông, không chỉ là từ các
quân khu lân cận, mà cả từ Pricarpathian trên quãng đường bay dài tới
7.000km trong vòng hai ngày.
Vấn đề không phải là vài chục chiếc máy bay chiến đấu, được rút ra từ
các phân đội bay sẵn sàng chiến đấu thường xuyên, mà là các trung đoàn
bay đầy đủ theo biên chế. Cùng với các máy bay chiến đấu, các máy bay
vận tải vận chuyển luôn cả các đơn vị hậu cần kỹ thuật, các trang thiết
bị, kỹ thuật dự trữ và cơ sở vật chất dự phòng theo biên chế.
Có những thời điểm trên không trung cùng lúc bay hàng chục trung đoàn
không quân chiến trường. Ngay sau khi các đơn vị không quân hạ cánh,
các đơn vị và phân đội không quân lập tức nhận nhiệm vụ và triển khai
tham gia huấn luyện diễn tập. Trong quá trình tiến hành các hoạt động
chuyển quân và diễn tập chiến đấu tiến công, các kíp lái đã cơ động hơn
5000h, sử dụng hơn 1.000 quả bom và tên lửa.
Một khối lượng khổng lồ vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu, cơ sở
vật chất, vận chuyển từ Liên bang Xô viết, đã giải quyết toàn bộ vấn đề
về trinh sát đường không của địch trên lãnh thổ Việt Nam. Một bộ phận
không quân đảm bảo vận tải trên lãnh thổ Việt Nam. Thành quả và khối
lượng không thể tưởng tượng được của hàng không vận tải quân sự đã thực
hiện trên cầu hàng không được thiết lập giữa CCCP và Việt Nam.
Trong khuôn khổ chương trình diễn tập và vận chuyển khí tài chiến đấu
trong không đầy một tháng đã tiến hành cơ động 20 nghìn quân nhân của
lực lượng vũ trang Việt Nam, hơn 1.000 đơn vị (unit) trang thiết bị
chiến đấu, 20 máy bay quân sự và máy bay trực thăng, hơn 3 nghìn tấn vũ
khí trang bị, đạn và cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh.
Liên bang Xô viết đã thực hiện sứ mệnh cao cả của mình, bằng sự giúp
đỡ của tinh thần đồng chí, tăng cường sức mạnh quân sự cho quân đội nhân
dân Việt nam bằng giải pháp cung cấp khí tài quân sự. Trong giai đoạn
đầu tiên của cuộc xung đột vũ trang đến tháng 3/1979 theo đường vận tải
biển đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ binh
cơ giới, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21,
hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng không vác vai
và hàng nghìn tên lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.
Ngoài vũ khí trang bị, Liên bang Xô viết còn cung cấp các hệ thống
trang thiết bị đặc chủng và các dây truyền sửa chữa xe máy công trình
phục vụ bảo dưỡng và sửa chữa trang thiết bị, phương tiện chiến tranh.
Tất cả các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và hệ thống sửa chữa,
bảo hành trang thiết bị đi cùng đó đều được chuyển đến trong vòng một
tháng. Vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật đều trong trạng thái sẵn sàng
chiến đấu và có thể đưa vào chiến đấu được ngay.
Toàn bộ trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh được kiểm tra bởi
các đoàn kiểm tra kỹ thuật nghiêm khắc nhất, để chuẩn bị đã điều động
các chuyên gia, trong thực tế đã khai thác sử dụng triệt để các trang
thiết bị đó và có kinh nghiệm sâu sắc về khai thác sử dụng.
Như vậy, các phương tiện chiến đấu, từ các phương tiện vận tải, không
cần có sự chuẩn bị bổ sung, có thể đưa thẳng vào chiến trường. Đây thật
sự là một kỳ tích của hệ thống hậu cần, kỹ thuật, vận tải của quân đội
Xô viết cả về tốc độ cung cấp và vận tải trang bị, số lượng vũ khí trang
bị, khả năng sẵn sàng chiến đấu của vũ khí trang bị khi cơ động trên
hàng chục ngàn km đường biển.
Trong thời gian diễn ra cuộc tập trận tổng lực của quân đội xô viết,
người Trung Quốc căng thẳng theo dõi mọi diễn biến và có thể đánh giá
được, thật sự họ đang ở trong một tình huống nghiêm trọng như thế nào?
Đến mức họ không dám đưa lực lượng quân đội của họ từ vị trí đóng quân
ra biên giới Xô – Trung.
Ngoài biên giới, các phương tiện thông tin đại chúng tập trung toàn
bộ sự chú ý, theo dõi và đưa ra những phỏng đoán về cuộc diễn tập quân
sự, lớn nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại, diễn ra trong khu vực
châu Á.
Các hoạt động diễn ra rất quyết liệt, theo đúng thực tế chiến trường
chứ không hề có cảm giác “tình huống giả định, một bước tiến – hai bước
lùi”. Và áp lực chiến tranh nặng nề đè lên thế lực hiếu chiến, buộc họ
phải suy nghĩ tỉnh táo và kiềm chế tối đa..
Không đạt được những mục tiêu chính trị, tổn thất nặng nề về binh
lực, ngày 5/3/1979, Bộ máy lãnh đạo Bắc Kinh quyết định rút quân khỏi
lãnh thổ láng giềng. Quyết định đó bị thúc đẩy bởi hàng loạt các yếu tố
chính trị và quân sự, những yếu tố then chốt đó là:
- Sự ủng hộ kiên quyết của Moskva đối với Hà Nội, yêu cầu ngay lập
tức chấm dứt hành động xâm lược vô nhân đạo, khả năng sẵn sàng tiến hành
các hoạt động quân sự mạnh nhất trên khu vực phía Đông những mâu thuẫn
và bất đồng chính kiến ngay trong nội bộ nhà cầm quyền Bắc Kinh.
- Sự phản ứng mạnh mẽ của thế giới tiến bộ và yêu chuộng hòa bình.
- Sự xuất hiện rõ nét những điểm yếu trong công tác huấn luyện và
tiến hành các chiến dịch, thực hành các trận đánh của lực lượng sĩ quan
chỉ huy quân đội PLA.
- Trong biên chế các loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại, phương
tiện chiến tranh, khó khăn nghiêm trọng trong công tác vận tải cơ sở vật
chất, hậu cần kỹ thuật.
Các cuộc tấn công chấm dứt từ ngày 20/3 bắt đầu rút quân trên toàn bộ
các hướng chủ yếu. Cuộc rút lui được che chắn bởi hỏa lực dữ dội của
pháo binh và các cuộc tấn công nghi binh. Trong quá trình rút quân, PLA
sử dụng triệt để hỏa lực ngăn chặn của pháo binh, súng cối, gài mìn trên
các tuyến đường, phá hoại cầu cống, hủy diệt các khu nông trại, hợp tác
xã, làng mạc và khu dân cư.
Cuối tháng 3, Trung Quốc công khai tuyên bố đã rút hoàn toàn quân đội
nhưng cuộc đấu tranh giằng co giữa đôi bên còn kéo dài đến tận năm 1989
mới chấm dứt.
Các hành động chính trị quân sự quyết liệt của Liên xô, được thực
hiện dưới hình thức chuẩn bị quân sự toàn diện cho cuộc tấn công vào
lãnh thổ Trung Quốc, đã đạt được những kết quả mong muốn về chính trị.
Bộ máy lãnh đạo Bắc Kinh và quân đội PLA buộc phải từ bỏ hoàn toàn ý đồ
của mình.
Cuộc diễn tập đã đạt được những mục tiêu quân sự cần thiết. Sức mạnh
quân sự của Liên bang Xô viết đã chấm dứt những mưu toan nước lớn, những
ý đồ trong vai trò “anh cả” và tham vọng điều khiển châu lục, buộc
Trung Quốc nhìn lại ngay chính lực lượng quân sự của mình và những tham
vọng của một “đại quốc”.
Việt Nam đã tăng cường đáng kể sức mạnh quân sự, đủ để bảo vệ đất
nước và đường lối chính trị độc lập của mình trên trường thế giới.
Quân đội Liên bang Xô viết đã chứng minh được khả năng sẵn sàng chiến
đấu cao nhất, đáp ứng được những yêu cầu tác chiến hiện đại và sẵn sàng
hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
(BTP)
Đọc thêm:
HIỆP ƯỚC VIỆT NAM - LIÊN XÔ 1978:
(tên
đầy đủ: Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết), hiệp ước kí
3.11.1978 tại Matxcơva giữa một bên là tổng bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn, thủ tướng Phạm Văn Đồng,
thay mặt nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và một bên là tổng bí
thư Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô
Viết tối cao Liên Xô Brêgiơnep L. I. (L. I. Brezhnev), chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Kôxưghin A. N. (A. N. Kosygin), thay mặt Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết.
Hiệp ước có 9 điều, trong đó hai bên cam kết không ngừng phát triển
quan hệ mọi mặt, mở rộng hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kĩ thuật
giữa hai nước, cam kết làm hết sức mình để củng cố hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới. Đặc biệt, trong điều 6, hai bên thoả thuận: trong trường
hợp một trong hai bên bị tiến công hoặc bị đe doạ tiến công, thì hai
bên kí hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau, nhằm loại trừ mối
đe doạ đó và áp dụng các biện pháp thích đáng có hiệu lực, để bảo đảm
hoà bình và an ninh của hai nước. Hiệp ước có giá trị trong 25 năm, và
được mặc nhiên gia hạn 10 năm, nếu một trong hai bên không tuyên bố muốn
chấm dứt hiệu lực của Hiệp ước trước khi Hiệp ước hết hạn một năm.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực lúc bấy giờ, Hiệp ước có giá trị đặc
biệt quan trọng trong việc tăng cường sức mạnh của mỗi nước, góp phần
củng cố hoà bình và an ninh ở khu vực và trên thế giới. Hiệp ước đã phát
huy tác dụng to lớn trong việc củng cố và phát triển quan hệ hợp tác
mọi mặt giữa hai nước. Sau khi Liên Xô tan rã, Hiệp ước mất hiệu lực.
Tuy nhiên, Việt Nam
vẫn chủ trương duy trì và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với Liên
bang Nga và tất cả các nước vốn là thành viên thuộc Liên Xô trước đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét