Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH

Rằm tháng 7 có 2 lễ khác nhau: lễ Vu Lan báo hiếu và Lễ cúng cô hồn. Ngày trước lễ cúng cô hồn được chú trọng hơn. Bây giờ người ta lại để ý nhiều đến lễ báo hiếu (chuyển dịch từ "tập thể" về "cá nhân" (!))
Rằm tháng bảy to nhất trong năm, mẹ thường nhắc đến việc cúng "xá tội vong nhân" thật đầy đủ, không nhắc gì đến lễ Vu Lan. Nhớ đến bài Văn chiêu hồn của Nguyễn Du, về lễ cúng Cô hồn phổ biến ở quê hương Nghệ Tĩnh.

Văn tế thập loại chúng sinh còn được gọi là  hay Văn tế chiêu hồn là một trong số tác phẩm xuất sắc của thi hào Nguyễn Du.
Văn tế thập loại chúng sinh, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Theo Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Tuy nhiên, GS.Hoàng Xuân Hãn lại cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812).
Sách Từ điển văn học (bộ mới) cho biết người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là GS. Lê Thước. Nhưng cổ nhất là bản khắc ván năm 1895 của nhà sư Chính Đại (nên được gọi là bản Chính Đại), được tàng trữ ở chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Từ hai bản này, Hoàng Xuân Hãn khảo chứng, hiệu đính kỹ lưỡng và đã đưa ra một văn bản khác có độ tin cậy cao hơn...
Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo Đặng Thị Hảo, có thể chia bài văn thành bốn phần
·        Phần một (20 câu): tả cảnh một chiều thu tháng Bảy mưa dầm buồn bã, khiến nhà thơ chạnh lòng thương đến các chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi cõi âm mà lập đàn cầu siêu...
·        Phần hai (116 câu): nêu rõ tên và nguyên nhân thiệt mạng của mười loại cô hồn.
·        Phần ba (20 câu): miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của các cô hồn.
·        Phần cuối (28 câu): lời thỉnh cầu phép Phật nhiệm mầu giúp cho họ được giải thoát. Cuối cùng là lời mời các cô hồn tới nhận phần lễ cúng để lên đàng thăng thiên...

Tuy là một bài văn khấn tế, hình thức mang tính chất tôn giáo trong văn học Việt Nam, nhưng tác phẩm không sử dụng hình thức văn tế biền ngẫu thường thấy, cũng không viết bằng văn xuôi, mà chọn thể loại song thất lục bát khiến vần điệu linh hoạt, truyền cảm, có tác dụng khơi dậy lòng trắc ẩn từ phía người đọc, người nghe. Tác phẩm của Nguyễn Du tràn ngập tình yêu thương, thông cảm... Ngoài một vài phương ngữ và điển tích nhà Phật ít quen thuộc không đáng kể, nói chung bài văn dễ hiểu, dễ cảm thụ bởi giọng thơ cuộn chảy theo những biến tấu bất ngờ của nhịp câu song thất. Tác phẩm còn được đánh giá là tác phẩm song thất lục bát duy nhất sử dụng dày đặc và rất độc đáo thủ pháp tiểu đối.


Tác giả: Nguyễn Du

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt, 
Toát hơi may lạnh buốt xương khô 
Não người thay buổi chiều thu, 
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng... 
Đường bạch dương bóng chiều man mác, 
Dịp đường lê lác đác mưa sa 
Lòng nào lòng chẳng thiết tha 
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm. 
Trong trường dạ tối tăm trời đất, 
Có khôn thiêng phảng phất u minh... 
Thương thay thập loại chúng sinh 
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người 
Hương lửa đã không nơi nương tựa 
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên... 
Còn chi ai khá ai hèn 
Còn chi mà nói ai hèn ai ngu! 
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát 
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi 
Muôn nhờ đức Phật từ bi 
Giải oan cứu khổ độ về tây phương. 

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh 
Chí những lăm cất gámh non sông 
Nói chi những buổi tranh hùng 
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau! 
Bỗng phút đâu mưă sa ngói lở 
Khôn đem mình làm đứa thất phu 
Giàu sang càng nặng oán thù 
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời 

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc, 
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa 
Cho hay thành bại là cơ 
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan. 

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ 
Những cậy mình cung quế Hằng Nga, 
Một phen thay đổi sơn hà, 
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu? 
Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy 
Phận đã đành trâm gãy bìng rơi 
Khi sao đông đúc vui cười 
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương. 

Đau đớn nhẽ không hương không khói 
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim. 
Thương thay chân yếu tay mềm 
Càng năm càng héo một đêm một dài. 

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng, 
Ngọn bút son thác sống ở tay 
Kinh luân găm một túi đầy 
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu. 
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm, 
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh 
Ngàn vàn khôn đổi được mình 
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu? 
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước 
Biết lấy ai bát nước nén nhang? 
Cô hồn thất thểu dọc ngang 
Nặng oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh? 

Kìa những kẻ bài binh bố trận 
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung 
Gió mưa sấm sét đùng đùng 
Phơi thây trăm họ nên công một người. 
Khi thất thế tên rơi đạn lạc 
Bãi sa trường thịt nát máu rơi 
Mênh mông góc bể chân trời 
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào? 
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét 
Khí âm huyền mờ mịt trước sau 
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu, 
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường? 

Cũng có kẻ tính đường trí phú 
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn 
Ruột rà khôngkẻ chí thân 
Dẫu làm nên để dành phần cho ai? 
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ 
Của phù vân dẫu có như không 
Sống thời tiền chảy bạc ròng 
Thác không đem được một đồng nào đi. 
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm 
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm 
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm 
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu? 

Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy 
Dẫn mình vào thành thị lân la 
Mấy thu lìa cửa lìa nhà 
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân. 
Dọc hàng qúan gặp tuần mưa nắng 
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng 
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng 
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng 
Bóng phần tử xa chừng hương khúc 
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang 
Cô hồn nhờ gửi tha phương 
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng. 

Cũng có kẻ vào sông ra bể, 
Cánh buồm mây chạy xế gió đông 
Gặp cơn giông tố giữa dòng 
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê. 

Cũng có kẻ đi về buôn bán 
Đòn gánh tre chín dạn hai vai 
Gặp cơn mưa nắng giữa trời 
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao? 

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính 
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan 
Nước khe cơm vắt gian nan 
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời 
Buổi chiến trận mạng người như rác 
Phận đã đành đạn lạc tên rơi 
Lập lòe ngọn lửa ma trơi 
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương! 

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp 
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa 
Ngẩn ngơ khi trở về già 
Ai chồng con tá biết là cậy ai? 
Sống đã chịu một đời phiền não 
Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ 
Đau đớn thay phận đàn bà, 
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu? 

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất 
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi 
Thương thay cũng một kiếp người 
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan. 

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc 
Gửi mình vào chiếu rách một manh 
Nắm xương chôn rấp góc thành 
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi? 

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé 
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha 
Lấy ai bồng bế xót xa 
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng. 

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối 
Cũng có người sẩy cối sa cây 
Có người leo giếng đứt dây 
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành. 
Người thì mắc sơn tinh thủy quái 
Người thì sa nanh sói ngà voi 
Có người hay đẻ không nuôi 
Có người sa sẩy có người khốn thương. 
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước 
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau 
Mỗi người một nghiệp khác nhau 
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ? 

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi 
Hoặc là nương ngọn suối chân mây 
Hoặc là điếm cỏ bóng cây 
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ 
Hoặc là nương thần từ Phật tự 
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông 
Hoặc là trong quãng đồng không 
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre 

Sống đã chịu một bề thảm thiết 
Ruột héo khô dạ rét căm căm 
Dãi dầu trong mấy mươi năm 
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương 
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn 
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra 
Lôi thôi bồng trẻ dắt già 
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh. 
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ 
Phóng hào quang cứu khổ độ u 
Rắp hòa tứ hải quần chu 
Não phiền trút sạch oán thù rửa không. 
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại 
Chuyển pháp luân tam giới thập phương 
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương 
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh. 
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh 
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao 
Mười loài là những loài nào? 
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh. 
Kiếp phù sinh như hình như ảnh 
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không" 
Ai ơi lấy Phật làm lòng 
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi. 
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo 
Của có khi bát cháo nén nhang 
Gọi là manh áo thoi vàng 
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên. 
Ai đến đây dưới trên ngồi lại 
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ 
Phép thiên biến ít thành nhiều 
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh. 
Phật hữu tình từ bi phổ độ 
Chớ ngại rằng có có không không. 
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng 
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.







Thập loại chúng sinh" - Tranh chì và sáp của Nghệ sĩ Tô Bích Hải






2 nhận xét:

  1. HG hiểu CCK nói "còn một địa chỉ..." là ở đâu rồi ạ!

    Trả lờiXóa
  2. HG yêu hội họa, thơ văn và âm nhạc nói chung, đặc biệt thơ, nhạc Nga! HG trải nghiệm được khoảng 60%, chưa quen ẩn dụ nhưng HG...thông minh!

    Trả lờiXóa