Thưa ông Khoa!
Khi viết về thi sĩ Xuân Diệu, một
nhà thơ mà tôi đặc biệt cảm kích, sau khi ca tụng câu thơ "Trái đất ba
phần tư nước mắt - Đi như giọt lệ giữa không trung", ông lại cho rằng
"đây là câu thơ hay một cách đột xuất, bay ra ngoài quỹ đạo quen thuộc của
thơ Xuân Diệu". Ông viết như thế thì người đọc nên hiểu như thế nào? Theo
dõi dư trấn xung quanh cuốn sách của ông, tôi biết có một nhà phê bình trong
nước muốn chữa câu thơ ấy, thay chữ "Đi" bằng chữ "Trôi".
"Trôi như giọt lệ giữa không trung". Tôi nghĩ cũng có lý. Còn ông thì
nghĩ sao về điều này?
Vũ Trung Nguyên
1085 N. Adams Street - Arlington, VA 24203
Xuân Diệu là thày dạy nghề của tôi, là một trong những tác giả tôi đề
cập đến trong cuốn sách với lòng tôn kính và ngưỡng mộ sâu sắc. Tôi đặc biệt
kính phục hai câu thơ của ông:
Trái đất ba phần tư nước mắt
Đi như giọt lệ giữa không trung
Cứ như cách hiểu của
tôi thì đây là câu thơ rất giản dị và kỳ vĩ, có tầm khái quát rất cao, lại rất
điêu luyện trong kỹ nghệ đưa thực tế đời sống vào thơ, một công việc bếp núc
nhà nghề không mấy dễ dàng mà ngay cả Xuân Diệu cũng không phải lúc nào ông
cũng làm được. Xuân Diệu từng viết về việc khai thác than, phải lọc bao nhiêu
tấn đất đá mới chọn ra được một tấn than như thế nào. Rồi chuyện đóng hộp dưa
chuột. Ông kể rất tỉ mẩn là phải chọn loại dưa như thế nào, hình dáng kích cỡ
ra sao, dưa không được vẹo vọ hay sứt sẹo, rồi rửa dưa thế nào, không được để
lẫn một hạt cát khi đóng hộp. Đọc chỉ thâý quý tấm lòng của ông đối với công
việc sản xuất, còn bài thơ thì đã trệch ra khỏi văn chương và trượt xuống việc
bốc đất bốc đá hay kỹ thuật đóng hộp dưa chuột mất rồi, không còn là thơ nữa.
Xuân Diệu viết về việc mở đường ở Mã Pí Lèng cũng thế. Cái thực tế rất cụ thể,
rất chính xác như thế này cũng không phải là thơ:
Đá nhỏ
bắt đầu rơi lộp bộp
Sau lôi
đá lớn đổ ầm ầm...
Chiêm ngưỡng Xuân
Diệu một cách khách quan và sòng phẳng như thế để chia sẻ nỗi vất vả cực nhọc
trong công việc sáng tạo thi ca với ông, càng thấy quý hơn, trân trọng hơn hai
câu thơ tuyệt vời ở mọi phương diện của ông:
Trái
đất ba phần tư nước mắt
Đi như
giọt lệ giữa không trung
Tôi đi đã nhiều, lục lọi cũng rất nhiều trong kho tàng thi ca nhân loại, nhưng
cho đến nay, tôi chưa thấy câu thơ nào giản dị và kỳ vĩ hơn thế, tài nghệ đến
như thế trong lĩnh vực xây dựng hình tượng thơ và đặc biệt là kỹ nghệ đưa thực
tế đời sống vào thơ. Trong nền thơ ca nhân loại, nếu xét về mặt tổng thể, thi
sĩ Xuân Diệu của chúng ta chỉ ở một vị trí rất khiêm nhường, nếu đặt ông bên
cạnh Lý Bạch, Đỗ Phủ, R. Tagor, Nguyễn Du, A. Puskin, Gơt...vv...Nhưng nếu mỗi
thi sĩ chỉ được chọn ra hai câu thơ và chỉ hai câu thơ thôi, thì tôi ngờ rằng,
có lẽ tất cả các bậc thiên tài kia đều phải ngả mũ trước hai câu thơ đó của
Xuân Diệu. Hồn vía của hai câu thơ rất tuyệt vời ấy nằm trong một chữ. Đó là
chữ "Đi". Còn nếu cứ tách bạch ra thì câu thơ "Trái đất ba phần
tư nước mắt" chỉ là chuyện thực tế đời sống được nâng cao. Vì ai cũng
biết, trái đất của chúng ta ba phần tư là biển. Từ đấy, Xuân Diệu nhìn thấy
Trái đất "đi" như một giọt lệ thì hay thật. Nó hay chính ở cái chữ
"đi" này. "Đi" là ở thế chủ động, và phải "đi"
thì trái đất mới là một sinh linh, mới ra một thân phận. Còn "trôi"
thì thành nước thật mất rồi, trái đất hóa vô cảm như dòng nước vô tri, câu thơ
dễ dãi và lười nhác. Chữa thế là làm hỏng mất cả câu thơ.
Khi cho rằng câu thơ
này bay ra ngoài quỹ đạo quen thuộc của thơ Xuân Diệu, là trong lòng tôi có
chút băn khoăn. Thực tình trong thâm tâm, tôi ngờ câu thơ này không phải của
Xuân Diệu vì nó nhuốm màu Huy Cận. Cái hay của thơ Xuân Diệu thường hay theo
kiểu khác. Xuân Diệu có hai chặng đường thơ rất rõ rệt mà bất cứ người đọc tối
thiểu nào cũng có thể nhận ra. Trước cách mạng là rạo rực yêu đương và sống
cuống quýt, vội vàng. Sau Cách mạng, ông kéo thơ về mặt đất cần lao và cố gắng
đưa thật nhiều thực tế đời sống vào thơ. Ông nhiều lần phàn nàn với tôi:
"Cái mồm của thơ ta bé quá. Phải rạch nó ra để nhét đất đá của đời sống
vào". Ông quan niệm thơ phải "Chân chân chân. Thật thật thật". Câu
thơ này chẳng nằm trong khoảng nào trong cả đời thơ Xuân Diệu. Đã thế, nó lại
có "hơi" Huy Cận rất rõ. Nỗi băn khoăn ấy cứ đeo đẳng tôi mãi. Một
lần, tình cờ gặp Huy Cận, không hiểu sao, nhìn Huy Cận, tôi lại đâm ngờ vực cái
linh cảm ấy của mình. Hình như tôi đã nhầm. Cái câu thơ rất siêu thoát ấy không
phải của của Huy Cận chăng? Và rồi một lần khác, chẳng biết do giời xui đất
khiến thế nào đó, tôi lại bộc lộ nỗi băn khoăn ấy với Huy Cận. Huy Cận đột ngột
kêu lên: "Trời ơi, sao cậu biết chuyện đó? Ai nói với cậu thế? Câu thơ ấy
đúng là của mình. Mình viết năm 1940 ở Huế. Xuân Diệu rất thích nên mình tặng
Diệu. Bây giờ, thì mình thấy câu thơ ấy chính là của Diệu chứ không phải của
Cận". Đến lúc ấy, tôi mới biết cái linh cảm của tôi đã không phản tôi. Câu
thơ ấy đúng là của Huy Cận thật. Kể lại với bác và bạn đọc điều này, tôi nghĩ
mình cũng chẳng làm điều gì phương hại đến uy tín của Xuân Diệu. Xuân Diệu như
một đỉnh núi lớn. Có tách riêng ra một tảng đá, cho dù đó là vàng ròng ở dạng
rất đặc biệt thì cũng không phải vì thế mà đỉnh núi đó thấp đi. Ngược lại, ta
còn biết thêm một vẻ đẹp nữa của tình bạn giữa hai thi sĩ lớn, hai danh nhân
văn hóa lớn của nền văn học hiện đại nước nhà: Xuân Diệu và Huy Cận.
HG cũng mê hai câu thơ này lắm ạ! Thán phục vô cùng!!!!! Có thể diễn tả nhấn mạnh là "thích đến gai cả người" :). HG cũng cực kì tâm đắc với những ý phân tích về chữ "đi" của ông VTN trong lá thư này. Hồi mới đọc bài phê bình(chả nhớ có phải Trần Mạnh Hảo không) có chê vài điều viết về Xuân Diệu của Trần Đăng Khoa (trong cuốn Chân dung và đối thoại). HG thực sự "tức cả mình" khi thấy người này viết rằng: câu thơ mà TĐK ca tụng ấy ông ta vẫn chữa được- chữa chữ "đi" thành chữ "trôi"...
Trả lờiXóaCâu thơ đó có thể của Huy Cận ư? Nghe tác giả phân tích và nhớ lại phong cách thơ của hai ông thì lại thấy ... có lý. Nhưng sự thật như thế nào, mong chính thức được công bố. Bởi vì với tầm vóc như thế, câu thơ cần có chính chủ...