Cuộc gặp này
được Bộ trưởng Hoàng Minh Giám kể lại như sau:
Sau ngày
kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946), quan hệ giữa ta và Pháp rất thưa
thớt. Ngoài một vài bức điện hoặc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho
các đại diện chính phủ Pháp (Léon Blum, Moutet) chỉ có một vài cuộc tiếp xúc
giữa đại diện chính phủ ta với các lãnh sự Mỹ, Anh, Ấn Độ và đại biểu Hội chữ
thập đỏ quốc tế; các cuộc tiếp xúc đó là do phía Pháp đề nghị, nhằm giải quyết
cái gọi là “vấn đề tù binh Pháp”.
Hạ tuần
tháng 4/1947, ta gửi cho Pháp một bức thông điệp đề nghị ngừng bắn. Lúc đó tên
Đô đốc Georges Thierry d'Argenlieu, Cao ủy Pháp tại Đông Dương đã bị về vườn và
Cao ủy mới là Emile Bollaert đã đến Đông Dương.
Một ngày đầu tháng
5/1947, có cuộc gặp giữa tôi và lãnh sự Anh Trésor Wilson gần cầu Đuống. Sau
mấy phút trao đổi ý kiến về “vấn đề tù binh” và tình hình chung, viên lãnh sự
Anh nói:
- Ông có biết ông
Paul Mus không ? Ông ấy nói đã có dịp gặp ông ở Hà Nội và đã được yết kiến Chủ
tịch Hồ Chí Minh trước ngày 19/12/1946.
- Có. Đúng như vậy.
- Ông Paul Mus
muốn gặp ông. Ông ấy đã đi theo tôi đến phía bên kia cầu Đuống, cách đây độ một
km và đang chờ ở đó. Nếu ông đồng ý tiếp, thì ông ấy sẽ đến ngay.
- Ông ấy muốn gặp
tôi về việc gì? Ông có biết không?
- Ông ấy nói rằng
có một việc rất quan trọng, và ông ấy tha thiết muốn gặp ông. Hiện nay ông ấy
là một người giúp việc thân cận, một cố vấn của Cao ủy Emile Bollaert.
- Được. Nhờ ông
báo cho ông Paul Mus rằng tôi sẵn sàng gặp ông ấy.
Một lát sau, Paul
Mus đến. Sau khi chào hỏi, ông ta vào đề ngay:
- Tôi có một
việc rất quan trọng, bí mật và gấp, muốn được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi
được ủy nhiệm chuyển trực tiếp đến Chủ tịch một thông điệp của Cao ủy Emile
Bollaert. Nếu có thể, tôi sẵn sàng đi theo ông ngay bây giờ.
- Rất tiếc. Đi
ngay bây giờ thì không được. Tôi sẽ báo cáo với Hồ Chủ tịch. Và tôi sẽ trả lời
cho ông biết quyết định của Người. Ông hãy cho biết nên trả lời ông bằng con
đường nào, vừa nhanh chóng vừa bảo đảm bí mật?
- Cảm ơn. Đề nghị
ông trả lời tôi bằng điện đài.
Paul Mus đọc một
câu có nghĩa lóng và nói tiếp:
- Bắt đầu từ ngày
kia mỗi buổi sáng, hồi 9 giờ, bộ phận nghe đài của chúng tôi sẽ đón nghe đài
của các ông; nghe được câu lóng đó, tôi sẽ đến địa điểm này, đúng giờ hẹn, để
được dẫn đến gặp Hồ Chủ tịch và trao trực tiếp bản thông điệp của Cao ủy Emile
Bollaert.
Sau đó, điện đài
của ta báo cho phía Pháp biết Hồ Chủ tịch bằng lòng tiếp Đặc phái viên của Cao
ủy Emile Bollaert. Đúng hẹn, người của ta chờ Paul Mus ở đầu cầu Đuống và dẫn
vào vùng giải phóng. Để đảm bảo bí mật và vì các đường cái đã bị dân công đào,
cắt, ông ta phải đi bộ qua các làng phần lớn đã tản cư, và đi ban đêm.
Một buổi tối trung
tuần tháng 5/1947, Paul Mus được Hồ Chủ tịch tiếp vào khoảng 22 giờ, tại Thái
Nguyên. Thị xã Thái Nguyên đã tản cư triệt để và tiêu thổ kháng chiến. Các đồng
chí bảo vệ tìm được một ngôi nhà không nguyên vẹn nhưng cũng còn được một gian
tương đối khả quan, có bàn và ghế, có thể dùng làm nơi Bác tiếp người phái viên
bí mật của Emile Bollaert.
Tôi chờ Paul Mus
và đưa ông ta vào gian nhà yết kiến Hồ Chủ tịch. Dưới ánh sáng của ngọn đèn
măng-sông, tôi cảm thấy ông ta xúc động được Bác tiếp, giản dị, lịch sự, như
lúc ở phòng khách tại nhà 12 Ngô Quyền, Hà Nội.
Paul Mus cảm ơn Hồ
Chủ tịch đã vui lòng cho ông ta gặp để làm nhiệm vụ do Cao ủy Đông Dương giao
cho và xin phép đọc cho Bác nghe (đọc thuộc lòng) bản thông điệp không ghi vào
giấy của Emile Bollaert trả lời thư đề nghị ngừng bắn của Chính phủ ta đề ngày
25/4/1947.
Thông điệp của
Emile Bollaert nêu ra bốn điều kiện cho ngừng bắn: Quân đội Việt Nam phải nộp
vũ khí cho Pháp; Quân đội Pháp được quyền đi lại tự do trên đất nước Việt Nam;
Chính phủ Việt Nam phải trả lại cho Pháp tất cả những người đã bị bắt mà họ gọi
là con tin; Chính phủ Việt Nam phải trao cho Pháp tất cả những người nước ngoài
(ý nói: Người Nhật và người Pháp đã chạy sang phía Việt Nam).
Sau khi nghe những
điều kiện láo xược đó của Cao ủy Pháp, Hồ Chủ tịch nghiêm nét mặt, nhưng bình
tĩnh và giọng nói ôn tồn, Người hỏi:
- Ông Paul Mus,
tôi biết ông đã tham gia cuộc kháng chiến của nhân dân Pháp chống Hitler, điều
đó có đúng không?
- Thưa Chủ tịch,
đúng.
- Vậy thì ông hãy
trả lời tôi: Nếu ở địa vị tôi, ông sẽ có thái độ thế nào đối với bản thông điệp
của ông Emile Bollaert? Ông có nhận những điều kiện đó không?
Paul Mus lúng
túng.
Bác nói tiếp:
- Tôi nghe nói ông
Emile Bollaert cũng đã tham gia cuộc kháng chiến chống Hitler và có thành tích.
Những điều kiện ông ấy đưa ra để ngừng bắn có nghĩa gì? Có nghĩa là ông ấy đòi
chúng tôi phải đầu hàng. Ông Paul Mus, bản thân ông có nghĩ rằng chúng tôi có
thể đầu hàng không? Lại còn điều kiện liên quan đến những người nước ngoài đứng
trong hàng ngũ kháng chiến Việt Nam
chống thực dân Pháp. Phải là một con người hèn mạt mới chấp nhận điều đó. Nếu
tôi chấp nhận, tôi là kẻ “hèn mạt”. Và tôi nghĩ rằng trong Liên hiệp Pháp không
có chỗ cho những kẻ hèn mạt.
Paul Mus im lặng,
gật đầu, tỏ ý đồng tình. Rồi nói:
- Tôi hiểu, thưa
Chủ tịch, tôi hiểu …
Thế rồi không ai
nói đến bản thông điệp nữa.
Bác giải thích về
lập trường của Chính phủ và nhân dân ta: Yêu chuộng hòa bình, muốn có quan hệ
tốt với nhân dân Pháp, nhưng kiên quyết kháng chiến để bảo vệ độc lập và thống
nhất của Tổ quốc mình. Paul Mus thừa nhận rằng đó là những tình cảm và ý chí chính
đáng, hứa sẽ báo cáo với Cao uỷ Emile Bollaert những ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Paul Mus cũng thú nhận đã được thấy tận mắt quang cảnh thị xã Thái
Nguyên “đã tiêu thổ kháng chiến”, ông ta rất khâm phục lòng yêu nước của nhân
dân Việt Nam.
Ông ta chúc sức khỏe Bác, và lúc chào từ biệt, tỏ ra cảm động thực sự. Lời cuối
cùng của ông ta lúc ra về là:
- Chúc Chủ tịch
dũng cảm!
Bác đáp lại:
- Luôn luôn! Tất
nhiên!
Một sự việc nhỏ có
lẽ đã làm cho Paul Mus ngạc nhiên: Khi cuộc tiếp kiến kết thúc, các đồng chí
phục vụ đã bưng ra mấy cốc rượu
sâm-banh để Bác mời khách uống trước khi ông ta rút lui vào bóng tối của đêm
khuya.
Năm năm sau, trong
quyển sách “Việt Nam,
cuộc chiến tranh xét về mặt xã hội học” xuất bản năm 1952, Paul Mus phê phán
nội dung của bản thông điệp mà ông ta đã có trách nhiệm chuyển đến Hồ Chủ tịch
tại thị xã Thái Nguyên. Người cố vấn đặc biệt, phái viên của Emile Bollaert, kể
rằng lúc đó bọn thực dân Pháp ở Paris và Sài Gòn đều nhất trí cho rằng chúng
nắm chắc chiến thắng trong tay rồi, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ đè bẹp cuộc
“kháng chiến của Việt Nam” vậy thì không nên nhận đàm phán.
Theo tác giả, Bộ
trưởng Bộ chiến tranh của Pháp lúc bấy giờ nhận định rằng “vấn đề quân sự ở
Đông Dương có thể coi như xong rồi”; một nhân vật quan trọng trong chính giới
Pháp khẳng định: “Chỉ ba tuần nữa thôi! mọi điều sẽ được giải quyết tốt, miễn
là không đặt vấn đề đàm phán!”.
Và chính vì thế,
khi nói đến ngừng bắn, thực dân Pháp đã đưa ra những điều kiện phi lý, mà bản
thân Paul Mus cũng nghĩ rằng phía Việt Nam không thể chấp nhận.
Khi Paul Mus ra về
rồi, Bác và chúng tôi còn ngồi lại khoảng một tiếng nữa để đợi ông ta đi xa rồi
mới về nơi ở. Lúc đó, vào khoảng một giờ sáng, Bác không về chỗ ở của mình mà
về Sơn Dương, chỗ cơ quan Bộ Ngoại giao. Việc Bác từ nơi nào đến gặp Paul Mus,
ngoài anh Phan Mỹ (Chánh Văn phòng Phủ Chủ tịch-Phủ Thủ tướng) thì không ai
biết cả. Bác bảo tôi: “Bây giờ chú về với tôi bằng xe com-măng-ca”. Lúc đó xe
đã đợi sẵn ở đó, theo sự bố trí của anh Phan Mỹ. Chúng tôi đi xe đến đèo Khế
thì trời bắt đầu sáng. Bác bảo chúng tôi: “Thôi, chúng ta xuống đi bộ, vì nếu
đi xe, máy bay địch dễ phát hiện”. Tôi và Bác đi bộ về khu tự do Sơn Dương và
ghé vào chỗ Bộ Ngoại giao. Tôi hứa với Bác là sẽ nhớ và viết lại lời của bức
thông điệp mà Emile Bollaert gửi Bác qua Paul Mus. Hai ngày sau, tôi gửi bài
viết đó cho Văn phòng của Bác.
(Nguồn: “Hoàng Minh
Giám - Người con của thế hệ vàng”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, NXB Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét