Tác giả: Doãn Quốc Sỹ
Sau 1975, một số sách cũ của Miền nam được đem ra bắc. Hồi ấy sách hiếm, vớ được là đọc ngốn ngấu. Có những truyện ngắn đọc xong để lại ấn tượng đến tận giờ. Khi đọc, ta phê phán ý thức hệ không đúng của tác giả, còn lại, truyện ngắn cho ta biết thêm một góc nhỏ của xã hội lúc bấy giờ, khuyến khích lòng yêu thương.
Quê tôi cách Hà Nội chừng 5 cây số. Khi cuộc kháng
chiến toàn quốc bùng nổ thì gia đình tôi tản cư lên Nhã Nam thuộc huyện Yên Thế,
Bắc Giang. Đến năm 1948 khi cậu tôi từ Vĩnh Yên lên thăm chúng tôi lần đầu thì
toàn thể gia đình chúng tôi ai nấy đều có màu da nửa vàng nửa xám xịt vì sốt rét
rừng.
Anh chị phải cho các cháu tản cư về mạn dưới như chúng
tôi - lời cậu tôi nói với thầy mẹ tôi - chứ cứ như thế này thì không chết cũng
chẳng còn ra hồn người nữa.Sau ngót hai năm tản cư gia đình tôi khánh tận rồi. Có lẽ vì nghĩ vậy nên thầy mẹ tôi tìm cách nói thác:
- Ngày xưa vùng Yên Thế Thượng này độc nhưng nay vì có
nhiều người lên khai phá nên khí hậu cũng không đáng ngại lắm.
Cậu tôi không chịu:
- Anh chị về Vĩnh Yên gần chúng tôi cho có anh có em, vừa
tránh được nạn sốt rét rừng vừa có cơ buôn bán khá. (Dạo đó Vĩnh Yên còn là cửa
ngõ của việc thông thương giữa Liên khu III với Bắc Việt).
Rồi cậu tôi về Vĩnh Yên. Hai tháng sau người lại lên,
nhất quyết đón gia đình tôi xuôi, nói là nơi ăn chốn ở đã thu xếp đâu vào đó cả.
Thế là gia đình tôi xuôi Vĩnh Yên, còn một mình tôi ở lại
Sở Thông Tin Liên khu III. Công tác của tôi là đi tuyên truyền mười điều kháng
chiến trong toàn huyện Yên Thế. Vì lưu động như vậy nên tôi cũng quên đi nỗi
buồn gia đình phân cách đôi nơị Nỗi buồn đó chỉ đến thắc mắc lòng tôi mỗi khi
trở về trụ sở kiểm điểm công tác. Trụ Sở Thông Tin ở một làng bên tả ngạn sông
Thương, gần một bến đò đẹp vào bậc nhất Bắc Giang, bến đò Lục Liễu. Để tăng phần
thơ mộng cho cái tên đó tôi vẫn thường dịch nôm là "Bến đò liễu xanh".
Thư của em tôi tới báo cho hay gia đình đã tới tản cư
cùng làng với gia đình cậu mợ tôi. Làng đó ở ngay bến Rau, bên này là Vĩnh Yên,
bên kia là Sơn Tây rất thuận tiện cho việc buôn bán.
Rủi thay, thầy mẹ tôi vừa đến Vĩnh Yên thì quân Pháp mở
chiến dịch càn quét khắp vùng Sơn Tây rồi thiết lập thêm đồn quân dọc theo hữu
ngạn sông Hồng từ Sơn Tây ngược lên đến Việt Trì. Các ngả đường giao thông với
Liên khu III đều bị quân Lê Dương phục kích ráo riết.
Cậu tôi đã rơi vào ổ phục kích của chúng, dấn vốn khánh
tận may thoát được người. Mẹ tôi phải ngừng chuyện buôn bán.
Nghe nói làng N.H. bên hữu ngạn sông Đáy gần chân dãy núi
Tam Đảo là một làng trù mật, chuyên bán đỗ, gia đình tôi bèn chuyển đến đây theo
sáng kiến của mẹ tôị khi tới nơi, mẹ tôi mới thấy rằng mình đã nhầm. Trước đấy
một năm thì địa điểm này buôn bán được vì hầu như dân chúng toàn hạt Vĩnh Yên đổ
xô về để tránh Pháp tấn công, nhưng nay, tình hình tạm yên ai nấy trở về chốn
cũ, địa điểm N.H. trở lại chốn trầm mặt của chốn chuyển tiếp giữa vùng trung du
bên dưới với vùng đèo heo hút gió bên trên.
Vừa lúc đó tôi xin thôi ở sở Thông Tin về.
Mẹ tôi mừng lắm vì người vẫn thường nói: "Thời loạn lạc
gia đình nên gần nhau nhỡ có thế nàọ..". Hình như trong óc người - có thể nói
trong óc mỗi người trong gia đình tôi - đều luôn luôn lo sợ cảnh một người bị
chết vì bom đạn rồi mất xác vì gia đình không kịp biết để nhìn nhận. Niềm vui
đoàn tụ giúp chúng tôi bớt buồn nản khi thu xếp gồng gánh trở lại huyện Yên Lạc.
Lần này gia đình tôi không dám ở gần bến đò Rau nữa vì sợ phi cơ oanh tạc, mà ở
một làng cách huyện Yên Lạc chừng gần một cây số. Gia đình cậu tôi ở ngay làng
bên. Lẽ cố nhiên cả hai gia đình chúng tôi cùng nghèo túng lắm, nghèo túng đến
nỗi cậu mợ tôi, thày me tôi cũng không dám sang nhà thăm nhau, chỉ chiều chiều
ra gặp nhau trên quãng đường đá nối huyện Yên Lạc với bến đò Rau.
Tôi gặp lại người yêu cũ từ Phủ Lý (Khu III) chạy lên.
Chúng tôi thành vợ chồng, tuy có ký giấy tờ tại Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính
Huyện - cậu mợ tôi là những người làm chứng - nhưng đám cưới hoàn toàn êm ả, y
như một đám cưới vụng trộm.
Em gái lớn tôi xoay đi buôn gạo, ngày ngày kĩu kịt đi về
20 cây số kiếm chút lãi Ở Yên Thế tuy bị sốt rét nhưng nhà ở giữa rừng ít lo bị
địch tấn công bất ngờ; tuy cũng nghèo túng nhưng còn có đất rộng để tăng gia rau
cỏ và nuôi được lợn gà.
Về đây những buổi ăn cháo ngô trừ bữa, mẹ tôi thường có ý
khép cửa giữa lại.
Em gái tôi đã phải đi chợ thật xa để đong gạo rẻ mà rồi
tính ra lời lãi cũng chẳng được là bao. Các cụ giải thích hiện tượng kinh tế này
bằng câu: "Thóc gạo có tinh", mẹ tôi làm tương gánh đi các chợ xa bán để kiếm
thêm. Vợ tôi tạng người yếu nhưng khéo tay, không làm được việc nặng, nàng phụ
trách những việc nhẹ như rang đỗ tương, ủ mốc, pha muối vào nước tương...
Dạo đó trường Luật mở ở gần chợ Me (Vĩnh Yên), tôi có ghi
tên theo học nốt năm thứ ba hy vọng ngày thành tài sẽ ra thẩm phán, đồng lương
họa có cao để giúp gia đình. Vì hoàn cảnh kháng chiến các giáo sư thường từ nơi
xa lại trường sở dạy liền trong mấy ngày, sau đó sinh viên tự tìm tài liệu
nghiên cứu thêm. Có khi thời gian nghiên cứu lấy dài hơn một tháng mới có giáo
sư mới. Tôi triệt để lợi dụng khoảng cách này để bon về giúp đỡ gia đình những
công việc nặng.
Mùa đông năm đó rét lạ lùng. Gió hun hút giật từng cơn
buốt như dao cắt từng mảnh thịt hở, thế mà hôm nào mẹ và em gái tôi cũng phải
dậy từ bốn giờ rưỡi sáng để sửa soạn gồng gánh ra đị Quần áo và chăn chiếu của
gia đình tôi thiếu mất nhiều. Thằng em thứ ba của tôi có được cái chiếu rách
mướp vừa nằm vừa đắp, chân thò ra ngoài thì nó lấy rơm phủ lên.
- "Ấy cứ thế mà ấm ra phết anh ạ" - Nó vừa cười khoái trí
vừa nói với tôi như vậy.
Các em trai em gái tôi đã lớn cả, chúng tôi hầu như
thường thi đua trong việc nhường nhịn nhaụ Mẹ tôi chỉ còn thắc mắc về thằng em
út của tôi. Nó còn nhỏ tuổi quá chưa thể tìm nguồn vui ở tinh thần để quên đói
rét. Tương đối với cả nhà nó được mặc lành nhất. Nó mặc cái áo đỏ chót có những
vệt chữ nho đen và những đường kim tuyến (nguyên đó là chiếc câu đối người ta
phúng bà tôi hồi chưa tác chiến). Câu đối đỏ thì may áo, còn nẹp sa teng vàng mẹ
tôi cố gạn may thêm cho nó chiếc áo di-lê. Chúng tôi gọi đùa nó là "anh cờ đỏ
sao vàng". Đêm đến rét quá không đủ chăn ấm, nó thường khóc khậm khạch. Chỉ cần
có thêm đôi chiếu nữa thì cả nhà đủ ấm.
- "Chiếu cói kỵ gió". - Mẹ tôi bảo thế.
Nhưng đến ăn còn chẳng đủ làm sao chúng tôi mua được đôi
chiếu bây giờ?
Hôm đó suốt từ sáng sớm đến trưa phi cơ bay từng đoàn bắn
phá và dội bom liên tiếp xuống các chợ lân cận: chợ Me, chợ Vàng, chợ An Lạc...
Mọi ngày chỉ khoảng bốn giờ chiều mẹ tôi có mặt ở nhà. Ngày đó giời đã xế chiều
mà người vẫn chưa về. Toàn thể gia đình tôi bắt đầu sốt ruột tuy không ai nói
một câu.
Chiều ngả màu xẫm. Gió bấc rít trong bụi tre già làm nền
cho tiếng khàn khàn của lũ quạ lục đục trong ổ, gió bấc xoáy từng vòng cuồng
loạn dứt từng vốc lá tre, lá bưởi vàng úa rồi lại nhào vút mất hút ra ngoài cánh
đồng bát ngát hiu quạnh.
Mẹ tôi vẫn chưa về.
Trong óc tôi thoáng hiện những cảnh chợ bị phi cơ tàn
phá, những hình người không kịp xuống hầm bị đạn chết gục bên cột lều tay còn
quờ ôm những đồ hàng của mình, những hình người bị bom napalm thiêu rụi như
những thân chuối cháy đen... Và tôi vùng ra cổng.
Thày tôi biết ý hẹn với:
- Con cứ thẳng đường ra bến Rau. Mẹ con thường về đường
ấy.
Ra tới cổng làng, tôi đi như bay theo đường đã định, cổ
họng nghẹn ngào, dạ cồn lên như lửa đốt. Con đường như rộng thênh thang, cánh
đồng ngập trong bóng chiều xẫm và trong gió bấc, càng trở thành mênh mông. Tôi
vun vút nhảy qua các hố phá hoại mà đi như một bóng ma cô độc đương muốn biến
theo luồng gió.
Từ xa như có bóng người đi lại. Chắc người đó ở chợ Rau
về. Để tôi phải hỏi tin tức về việc phi cơ oanh tạc hôm nay.
Hình như trên đòn gánh người đó có vắt ngang một cái gì.
Tôi lướt vội lên. Trời ơi, mẹ tôi!
Hai mẹ con mừng mừng tủi tủi như gặp nhau ở cửa âm ti.
Tôi hỏi: "Sao mẹ về muộn thế, cả nhà lo tưởng phát điên
lên". Mẹ tôi cho biết hàng hôm nay bán ở chợ không hết, người phải đi sâu vào
một vài làng lân cận để bán nốt. Rồi khi xuống khỏi đê, qua cái lạch lớn, thấy
có chiếc chiếu trôi, vội tìm cách vớt lên và giặt luôn bên lạch. Đó là chiếc
chiếu còn khá tốt tuy chiều rộng bị xén đi mất một phần ba.
Mẹ tôi chỉ vào chiếc chiếu phơi trên đòn gánh nói:
- Về đến nhà thì chiếu vừa khô con ạ. Tối hôm nay thằng
Tư - tên thằng em út tôi - có chiếu đắp ấm.
- Mẹ ơi, "giàu con út, khó con út", mẹ chẳng để ý gì đến
chúng con, chỉ chăm chút cho chú Tư thôi.
Mẹ tôi đi trước, gió ngược chiều nên tiếng tôi mất hút về
phía sau. Tuy nghe tiếng được tiếng không nhưng mẹ tôi vẫn hiểu câu nói đùa.
Người vừa giữ cái chiếu vừa quay nhìn tôi mỉm cười.
Tối hôm đó khi đi ngủ thằng chú Tư được mẹ tôi đắp cho
chiếc chiếu vớt ở lạch. Chân nó thò ra một tí khiến tôi nhận thấy chiếc bí tất
cũ vàng xỉn của tôi, chỗ đầu rách được buộc túm lại để các ngón chân xinh của nó
khỏi "thoát ly" ra ngoài.
Dạo đó chỉ còn một tháng nữa là tết. Tôi lại có dịp tạm
rời trường Luật, đợi đến qua giêng mới có giáo sự Tôi về vừa đúng lúc gia đình
đương cần nhân công xay thóc giã gạọ Dấn vốn của gia đình tôi còn đong được năm
nồi thóc. Dùng số tiền đó làm tiền đặt mẹ tôi có thể đong về được tám nồi. Theo
như mẹ tôi phác tính mỗi nồi thóc làm, được lợi ít ra là hai ca gạo, vị chi với
tám nồi thóc, chúng tôi sẽ lợi ít nhất là một nồi rưỡi gạo. Cứ như vậy mà đủ
việc liền trong một tháng, nghĩa là vừa đến tết, thì chúng tôi có thừa tiền đong
gạo nếp gói bánh chưng và mua thịt cá để đón một mùa xuân kháng chiến tương đối
huy hoàng.
Chúng tôi ngoại giao ổn thỏa với các nhà có cối xay cối
giã rồi bắt đầu vào việc. Thầy tôi trông nom mấy đứa nhỏ sửa soạn cơm nước. Tôi
và thằng em giai xay thóc trong khi mẹ tôi điều khiển vợ tôi và cô em gái sàng
gạọ Xay hết thóc chúng tôi đã có gạo đem đi giã, giã đến đâu mẹ và em tôi sàng
tấm sẩy cám đến đấy. Trong khi xay thóc tôi nhẩm ôn các đạo luật, các án lệ để
sửa soạn kỳ thi cuối niên khóa. Khi giã gạo với vợ, tôi cùng nàng thủ thỉ xây
mộng tương lai. Ngày kháng chiến thành công hẳn chúng tôi đã có những đứa con
kháu khỉnh, đã trở về quê hương dựng lại căn nhà xinh, sống tự do bình dị trong
tổ ấm gia đình.
Ngày đầu chúng tôi làm được tám nồi thóc với số gạo dư là
hai nồi. Một cụ già ở đấy gật gù nói: "Vạn sự xuất ư nho, đúng thật. Học trò thì
cái gì cũng làm được. Cứ bảo người Hà nội không chịu được lam lũ!"
Ngày hôm sau có tin quân Pháp đánh lên Vĩnh yên. Những
người có thóc giữ lại. Mẹ tôi phải vất vả lắm mới mua được bằng giá khá cao sáu
nồi thóc để chúng tôi có việc làm.
Quân Pháp chiếm Vĩnh Yên. Tiền Hồ Chí Minh sụt giá vùn
vụt. Vẫn số tiền cũ giờ đây chưa chắc mẹ tôi đã mua nổi bốn nồi thóc.
Quân Pháp theo sông đào tiến lên chiếm chợ Mẹ Dân chúng
xao xác chuẩn bị chạy. Số tiền trong tay mẹ tôi hầu trở thành giấy lộn. Chúng
tôi ăn một bữa quà bánh đúc, lúc giả tiền thấy vợi hẳn túi. Viễn ảnh những ngày
đầu xuân có gạo nếp, có thịt gà, thịt lợn bị giập vùi trong khói súng và biến
thành một điểm mong manh chết đuối giữa cảnh tàn phá rùng rợn của bom đạn tơi
bời cha lạc con vợ lạc chồng, anh em tán loạn mỗi người một phương.
Dạo đó tuy đã có phong trào "rèn cán chỉnh cơ" nhưng chưa
có cố vấn Tàu, chưa có chính sách "ba cùng", học tập đấu tố nên mặc dầu kinh tế
nguy ngập ai nấy vẫn tin tưởng ở ngày mai huy hoàng của dân tộc, tin tưởng ở
thắng lợi cuối cùng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của già Hồ (như lời tuyên truyền
phát thanh chiều chiều).
Sang hạ tuần tháng chạp, suốt ngày mưa phùn gió bấc lạnh
như cắt ruột. Không hiểu là vì rét nhiều hơn hay là vì chúng tôi đã bắt đầu giảm
khẩu phần! Chiếc chiếu mẹ tôi vớt ở lạch đắp cho thằng em út đã rách xơ xác.
Trong khi gia đình tôi giật gấu vá vai tìm cách nhường nhau miếng cơm manh chiếu
thì xảy cuộc hỗn chiến giữa quân đội Pháp và quân đội Kháng Chiến ở chân núi Tam
Đảọ Để giữ vững ưu thế quân sự về mình tại mặt trận Vĩnh Yên. Tướng Pháp De L.
quyết định hy sinh đoàn quân hắn, và hạ lệnh cho thả bom tận diệt đôi bên.
(Trong cái điên ba của một cuộc thế lọc lừa phản trắc,
người ta dày xéo lên tình người, điềm nhiên hy sinh xương máu đồng bào đồng loại
nơi này cho quyền lợi thực dân, nơi kia cho học thuyết giai cấp. Tôi không ghê
tởm những bộ mặt lãnh tụ như chúng sao được?)
Từ chân núi Tam Đảo quân Pháp đánh tỏa ra ba mặt, đồng
thời từ hữu ngạn sông Hồng, một toán Lê Dương vượt sang càn quét bến Rau ở tả
ngạn. Dân chúng từ bốn mặt chạy về huyện Yên Lạc, đổ xô vào các làng. Mẹ tôi bèn
thổi cơm hàng gánh đến bán cho họ.
Trong số rất đông các người ở làng Rau mang đồ đạc chạy
đến làng Lũng Thượng, có gia đình ông Lý Cựu vốn là bà con với ông chủ nhà nơi
tôi tản cư. Ông Lý nói chuyện với thầy tôi rất tương đắc nhất là khi ông biết
tôi đương học trường luật thi ra thẩm phán.
Ông nói:
- Tôi có thằng cháu năm nay lên sáu; giời cho làm người,
sau này kháng chiến thành công, tôi nhất định sẽ gởi cháu lên Hà Nội phiền ông
bà và cậu Cả trông nom giúp cho thành thân người.
Quân Pháp sau khi từ chợ Me vượt qua sông Đáy tiến sâu
vào huyện Lập Thạch đốt phá một ngày rồi rút lui về tỉnh. Cánh quân tiến sang tả
ngạn sông Hồng đốt phá bến đò Rau cũng rút lui về vị trí cũ bên hữu ngạn. Dân
chúng chạy loạn lục tục đâu trở về đấy ngay để còn kịp sửa soạn tết.
Làng Lũng Thượng trở lại yên tĩnh.
Trưa hôm đó mẹ tôi ra phía bụi tre đầu nhà thấy cong queo
dưới hầm trú ẩn một chiếc chiếu hoa cạp điều. Đúng là chiếc chiếu của một gia
đình chạy loạn nào khi về mừng quá bỏ quên.
Mẹ tôi nói: "Thôi thế cũng là giời thương mà cho nhà
mình!"
Đã lâu lắm, đêm đó tôi mới thấy thằng em út tôi có chiếc
chiếu đắp kín chân không trông thấy đôi bí tất buộc túm chỗ rách. Sáng ra, mẹ
tôi cẩn thận gấp chiếu rồi vắt lên chiếc giây thừng căng cao ngang mái nhà. Thế
là từ đây đêm đêm nghe tiếng gió rít và những hạt mưa táp vào đầu hồi tôi cũng
yên chí cho các em đã tạm đủ chiếu nằm, chiếu đắp. Hai ngày sau, tới buổi sớm ba
mươi tết, khi sực tỉnh, tôi thấy không khí trong làng có vẻ tưng bừng hơn vì
những tiếng bàn tán xôn xao xen với tiếng cười ròn rã ngoài đường xóm. Tôi vùng
dậy ra thẳng ngõ. Trời tuy lạnh ngọt nhưng quang đãng và êm ả vô cùng. Tôi gặp
mọi người mắt ai nấy sáng sáng ngời tin tưởng. Thì ra ở khắp các tường làng đều
đã kẻ khẩu hiệu:
"Chuẩn bị tổng phản công".
Đồng bào thủ đô bàn nhau ngày về nhận nhà nhận cửa, đồng
bào địa phương hơi có vẻ ngậm ngùi tưởng như giờ phút chia tay đã điểm.
Buổi trưa hôm đó ông Lý Cựu từ làng Rau mang theo vài thứ
xa xỉ phẩm làm quà biếu ông chủ nhà vào dịp tết. Ông Lý Cựu có xuống căn nhà
dưới thăm thầy tôi. Câu chuyện vừa xong phần xã giao thường lệ thì ông ngửng
nhìn thấy chiếc chiếu hoa cạp điều vắt ở giây thừng, ông đứng nhỏm dậy chạy lại
kéo tuột xuống nói gọn:
- Chiếc chiếu này của tôi.
Mẹ tôi chợt có một cử chỉ phản ứng của một người mẹ gìn
giữ con trong cơn nguy biến.
Người nói:
- "Ấy chiếc chiếu đó của nhà tôi..."
Mẹ tôi vốn là một Phật tử trung thành. Người chỉ nói được
đến đấy thì lương tâm Phật tử trở lại và người lúng túng quay nhìn ra ngõ.
Ông Lý Cựu thản nhiên gấp chiếu lại, cắp gọn nách rồi
thản nhiên nói:
- Không, chiếc chiếu của tôi. Tôi mua đôi chiếu cặp điều
từ năm mới tác chiến, một chiếc còn trên kia.
Thì ra đôi chiếu đó, ông Lý mang đến gửi ông chủ nhà
trong dịp vừa qua, rồi những người đến chạy loạn tự động mượn đem ra giải ở bụi
tre nghỉ tạm, lúc về vì chiếu rơi xuống hầm trú ẩn nên họ quên không trả lại chỗ
cũ.
Tuy chỉ một thoáng qua nhận biết sự thể là vậy nhưng tôi
vẫn chưa chịu và tiếp lời mẹ tôi:
- Chiếc chiếu này mẹ mua của một người ở chợ Lầm. (Ý tôi
muốn nói người đó lấy chiếc chiếu ở đây mang ra chợ Lầm bán).
Ông Lý vẫn thản nhiên, thản nhiên một cách cương quyết:
- Không, chiếc chiếu này của tôi.
Rồi ông cắp chiếu đi thẳng lên nhà. Lúc đó tôi cũng vừa
trở lại với tôi để nhớ ra rằng cuối năm nay tôi đã thi xong, có thể ra làm thẩm
phán. Tôi thoáng nghe phía sau tiếng vợ tôi thở dài rồi quay vào buồng.
Tối hôm đó khi thấy tôi lấy chiếc chiếu rách cũ vớt ở
lạch đắp cho thằng em út, mẹ tôi chép miệng nói khẽ:
- Thôi, sang giêng trời bắt đầu ấm, vả lại cũng sắp tổng
phản công rồi!
"Vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!" - mẹ tôi nghĩ thật
chí lý. Tổng phản công để bờ cõi được vinh quang độc lập, để mọi người được trở
về dựng lại quê hương yên vui.
Tôi hiểu khi đó hầu hết các gia đình khác cũng như chúng
tôi, chịu đựng bao nhục nhằn với những phút sa ngã nhỏ như chuyện chiếc chiếu
hoa cạp điều. Tất cả những hy sinh đó - kể cả hy sinh một chút danh dự cho sự
yếu đuối thường tình của con người - tuy dằn vặt, ray rứt mà không tàn phá nổi
niềm vui trong sáng, thanh thản của tâm hồn, vì ai nấy vẫn sống ngợp hy vọng một
ngày mai vinh quang.
Sớm mùng một năm đó mẹ tôi ra chùa lễ. Người quỳ rất lâu
trước bàn thờ Phật. Giọng người thành kính thiết tha cầu đức Phật phù hộ cho
chóng trở lại ỵên bình, gia đình được qua thì đói khỏi thì loạn.
Tiếng người khấn đôi khi nức nở. Tôi nghe nước mắt như
muốn trào ra.
Cộng sản dìm nhân loại trong thiếu thốn để chứng minh
nguyên lý "Vật chất quyết định hết thảy". Chúng lầm! Con người càng từng trải
cảnh thiếu thốn vật chất, niềm tin và đạo đức càng được hun đúc và tình cảm thêm
dạt dào. Sau này khi về vùng quốc gia, rồi di cư vào Nam tôi còn trải qua nhiều
gian lao nghèo túng và nhiều lần bị khinh rẻ, nhưng dù nghèo túng đến đâu, dù bị
khinh rẻ đến đâu, điều đau nhục nhất với tôi vẫn là chuyện chiếc chiếu hoa cạp
điều, tuy thực tình câu chuyện chỉ giản dị có vậy.
Cách đây ít lâu khi mua được đôi chiếu hoa Phát Diệm ở
đường Hai mươi về giải lên phản cho con nằm, tôi thấy vợ tôi chợt úp mặt vào hai
bàn tay trước bàn gương. Có lẽ nàng nghĩ đến câu chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều
khi xưa. Chuyện đó như biến thành chiếc phao xẫm màu, bất chấp mọi giông tố vẫn
nổi lềnh bềnh trên biển, biển thời gian của đời, biển kỷ niệm của hồn. Cũng kể
từ sau ngày xảy chuyện đó, thái độ tôi đối với người đời khác xưa nhiều. Tôi
thận trọng tránh mọi thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo, ích kỷ, sắc cạnh. Lòng dễ xúc
động, tôi thương người như thương chính thân mình vậy. Tôi thương những em nhỏ
sớm phải lăn lưng vào cuộc đời để tự nuôi sống, tôi thương những người đói khát
ham ăn ham uống, tôi thương những hình ảnh lam lũ một sương hai nắng, những hình
ảnh giật gấu vá vai, tôi thương những kẻ thù dân tộc hôm qua, ngày nay thất thế
ngơ ngác đi giữa kinh thành.
Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để
giam lỏng linh hồn, ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để
mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được
bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.
Thấy tôi hằng kiềm chế được nóng giận và nhất là vẫn mỉm
cười, khi ứa nước mắt các bạn bè thân thường khen tôi có thái độ hồn nhiên của
Trang Chu.
Các bạn yêu quý của tôi!
Các bạn có ngờ chăng thái độ hồn nhiên đó là kết quả của
biết bao cảnh cơ hàn mà tôi và những người thân của tôi đã trải qua, trong đó có
chuyện Chiếc chiếu hoa cạp điều!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét