SUY
NGHĨ NHÂN ĐỌC BÀI “
MẤY SUY NGHĨ VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM“ CỦA GIÁO SƯ
HÀ VĂN TẤN
“Một người lo bằng kho người làm”
Tục ngữ Việt Nam
1.
NỘI DUNG VÀ MỤC ĐÍCH CỦA BÀI VIẾT
Các nội
dung chính của bài viết
·
Tóm tắt bài viết của giáo sư Hà Văn Tấn
·
Tóm tắt lịch sử tư tưởng lý luận Việt Nam
·
Một số suy nghĩ cá nhân sau khi đọc bài viết
Mục đích
của bài viết
Nội dung của
bài viết là tóm tắt bài viết của giáo sư Hà Văn Tấn “Mấy suy nghĩ về lịch sử
Việt Nam và tư tưởng Việt Nam ”.
Bài viết cũng trình bày một số suy nghĩ của cá nhân về lịch sử tư tưởng của dân
tộc Việt Nam ,
gọi tắt là tư tưởng Việt. Mục đích của bài viết góp phần xem xét các điểm mạnh,
các điểm yếu về tư tưởng lý luận của người Việt để mà khắc phục, nhắm
hướng tới tương lai tươi đẹp của đất Việt.
Tư tưởng lý
luận có ích không thể là tư tưởng thuần túy, lý thuyết mà luôn gắn chặt với
thực tế, với lịch sử. Do vậy bài viết có thể hơi lan man về lịch sử hay một số
sự việc tưởng như không liên quan đến tư tưởng Việt.
2.
TÓM TẮT BÀI VIẾT CỦA GIÁO SƯ HÀ VĂN TẤN
Giáo sư Hà Văn
Tấn sinh năm 1937 tại Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, quê hương
của thi hào Nguyễn Du. Ông là một nhà khảo cổ học, sử học, Nhà Giáo Nhân
Dân, nguyên viện trưởng Viện Khảo Cổ Học và đã được giải thưởng Hồ Chí Minh về
khoa học.
Bài viết của
giáo sư Hà Văn Tấn nhan đề “ Mấy suy nghĩ về lịch sử Việt Nam và tư
tưởng Việt Nam ” được đăng trong cuối sách “ Một
số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam ” ( Viện Triết Học xuất
bản năm 1984 tại Hà Nội ) và cuốn sách “ Đến với lịch sử văn hóa Việt
Nam” ( tác giả: giáo sư Hà Văn Tấn, nhà xuất bản Hội Nhà
Văn, năm XB 2005). Bài viết này còn được đăng trên trang Web
TRIETHOC.EDU.VN
Bài viết của
giáo sư Hà Văn Tấn ngắn gọn, hay và đầy sức thuyết phục.
Có 3 ý quan
trọng trong bài viết của giáo sư Hà Văn Tấn:
· Từ khi
dựng nước cho đến nay nhân dân ra rất ít làm lý luận, ít có tư tưởng, trừ một
ít lý luận tư tưởng về quân sự và y học. Nguyên nhân chính là do chiến tranh,
do bị đô hộ và phải lo làm ăn.
.
Các tư tưởng của Việt Nam
đều là ngoại nhập.
· Các tư
tưởng ngoại nhập được du nhập một cách không đầy đủ và được biến đổi do
sự kém cỏi của người Việt hoặc để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt
Nam .
Các nhận định
trên của giáo sư Hà Văn Tấn, một người có uy tín trong giới học thuật Việt Nam,
thật là sắc sảo và chính xác, nhưng có lẽ cũng tạo cảm giác khá tâm tư,
khá đáng buồn, khá đáng lo cho người Việt chúng ta.
Trong một bài
viết ngắn giáo sư không tiện trình bày, giải thích thật đầy đủ mọi khía cạnh và
mọi giai đoạn của lịch sử tư tưởng Việt. Do vậy tôi xin mạn phép mở rộng vấn đề
và bổ sung thêm lịch sử tư tưởng Việt giai đoạn gần đây.
3.
Ý NGHĨA CỦA TỪ "TƯ TƯỞNG" TRONG BÀI VIẾT
Nghĩa của
thuật ngữ “tư tưởng” được dùng trong bài viết này có một số
đặc điểm sau:
·
"Tư tưởng" có nghĩa không cần quá rộng, không quá
cao siêu như chủ nghĩa, học thuyết hay hệ tư tưởng.
·
“Tư tưởng” có thể chỉ ở mức độ như suy nghĩ, tư duy, lý
luận, phát minh hay đơn giản là sáng kiến.
·
Từ “tư tưởng“ không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực triết học, chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hóa mà có thể trong bất cứ lĩnh vực nào
như văn học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và đời sống.
Đây là các đặc
điểm của thuật ngữ “tư tưởng” dùng trong bài viết này mà ta nên làm rõ
ngay từ đầu để tránh có sự hiểu nhầm.
4.
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TƯ TƯỞNG VIỆT TRONG THỜI PHONG KIẾN
a.
Ảnh hưởng của ngôn ngữ, chữ viết lên tư tưởng Việt
Sự tồn tại của
chữ Việt cổ chỉ là giả thiết. Nước Việt bắt đầu phải sử dụng chữ
Hán làm chữ viết từ thế kỷ 1 trước công nguyên. Chữ Hán còn được gọi là chữ Nho
do sự du nhập chữ Hán gắn liền với sự du nhập Nho giáo. Đến thế kỷ 10 xuất hiện
thêm chữ Nôm mà nguyên tắc là sử dụng ký tự chữ Hán để ghi âm tiếng Việt. Chữ
quốc ngữ xuất hiện vào thể kỷ 17, dùng bảng chữ cái La tinh có cải biên, bổ
sung để ghi tiếng Việt ( bỏ f, z, w, thêm đ, â, ơ v. v... thêm các dấu
thanh ?, ~. \ /, .).
Khi chưa có
chữ Nôm, tồn tại một bộ chữ là chữ Hán và hai thứ tiếng Việt và
tiếng Hán ở xã hội Việt. Chữ Hán được coi như chữ cung đình, hành chính
và học thuật. Việc học hành rất vất vả chứ đừng nói đến tư duy lý luận. Việc
ghi lại âm tiếng Việt, văn tiếng Việt là chưa thể. Các tư liệu trong thời
kỳ này đều là chữ Hán. Các tác phẩm văn học trong nước đã ít, lại viết
bằng chữ Hán, và lấy toàn điển tích bên Tàu. Đó là điều vô cũng thiệt
thòi cho dân tộc Việt về mọi mặt như văn hóa, lịch sử, văn học, tư tưởng lúc đó
và về sau này.
Việc xuất hiện
chữ Nôm là một sự cố gắng hết sức của ông cha ta nhằm giữ gìn tiếng Việt.
Nguyên lý của chữ Nôm là các âm tiếng Việt được ghi lại dựa trên bộ chữ
Hán. Chữ Nôm cũng rất phức tạp và từ thế kỷ 10 nước Việt tồn tại hai thứ tiếng
Việt, Hán, và hai bộ chữ Nôm, Hán. Tuy vậy chữ Hán vẫn là ngôn ngữ chính thức
của hành chính và học hành thi cử. May mà có chữ Nôm ta mới có các kiệt
tác văn chương như Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm và nhiều
tác phẩm khác, tuy rằng cốt truyện, điển tích và phong cảnh sinh hoạt vẫn
hầu như lấy hoàn toàn bên Tàu. Ví dụ Việt Nam hầu như làm gì có tuyết mà văn
Việt vẫn nói về tuyết.
Chữ quốc ngữ
xuất hiện vào thế kỷ 17 nhưng phải đến cuối thế kỷ 19 (năm 1882) mới
chính thức thay thế hoàn toàn chữ Hán trong công việc hành chính. Dần dần
chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán trong mọi lĩnh vực hành chính, đời sống, văn hóa,
học thuật. Nhiều lĩnh vực như văn hóa nghệ thuật, văn học, tư
tưởng, giáo dục chuyển sang thời kỳ mới, theo chữ viết mới và bắt đầu chịu
ảnh hưởng của văn hóa, nghệ thuật và tư tưởng phương Tây.
Sự phức tạp
của lịch sử ngôn ngữ, chữ viết đã gây rất nhiều phiền toái cho dân tộc Việt cả
trước kia và bây giờ về mọi mặt, đặc biệt là mặt văn hóa, tư duy tư
tưởng. Trước đây do ngôn ngữ, chữ viết mà học hành khó, tư duy lý luận khó. Bây
giờ thì nghiên cứu lịch sử và văn hóa, văn học xưa cũng khó vì các tài liệu xưa
đều chữ Hán hoặc chữ Nôm. Các từ tiếng Việt hiện này có đến hơn 80% từ
gốc Hán. Ví dụ điển hình của sự rắc rối về tiếng và chữ là vừa rồi
có sự tranh luận rất sôi nổi về các bản dịch của bài thơ nổi tiếng Nam
Quốc Sơn Hà. Truyện Kiều của Nguyễn Du, tuy viết bằng tiếng Việt
nhưng ghi lại trên giấy bằng chữ Nôm, cũng chịu sự rắc rối về tiếng và
chữ khi chuyển từ chữ Nôm sang chữ quốc ngữ. Nhiều thành ngữ, tục ngữ là tiếng
Hán hoặc nửa Việt nửa Hán như " tiền hậu bất nhất",
" tứ mã phanh thây". Phải chăng vì thế mà dân Việt ta tư
duy lý luận hơi lủng củng, tủn mủn, không rõ ràng chăng, và điều đó
có tác hại rất lớn đến sự phát triển của nước Việt.
Có hai nước
châu Á lúc đầu có hoàn cảnh tương tự với nước Việt về mặt chữ viết là Nhật
Bản và Hàn Quốc. Các nước này lúc đầu cũng chịu ảnh hưởng nhiều của
Trung Quốc về về ngôn ngữ và chữ viết, tư tưởng, văn hóa và nhiều mặt
khác. Tuy nhiên sau đó các nước này đã xây dựng được cho nước mình một hệ thống
ngôn ngữ thống nhất gồm tiếng và chữ viết độc lập với chữ và tiếng Hán, dù vẫn
còn vay mượn tiếng Hán và chữ Hán. Điều đó giúp các nước này dần trở nên độc
lập hơn với Trung Quốc về tư tưởng, văn hóa và các mặt khác. Nhưng có lẽ
điều quan trọng hơn cả là dù chữ viết chịu ảnh hưởng của chữ Hán, Hàn
Quốc và Nhật Bản lại rất độc lập về tư tưởng, tư duy lý luận.
b.
Ảnh hưởng của nghèo đói, chiến tranh và giáo dục kém lên tư
tưởng Việt trong thời phong kiến
Nguyễn Đình
Chiểu có một câu rất
hay trong bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc “ Nhớ linh
xưa, côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Câu văn nói lên thân phận
của người dân Việt xưa, chỉ lo làm ăn kiếm sống, lo nghèo, lo đói và lo
nội chiến, ngoại xâm. Họ còn sức đâu, thời gian đâu mà lo học hành, mà lo
lý luận tư tưởng xa xôi. Dân trí ngày xưa rất thấp. Người có học và có
kiến thức hầu như chỉ đủ để phục vụ hệ thống hành chính và giáo dục. Các kiến
thức đều do từ bên Tàu xa xôi truyền lại, và gốc của kiến thức cũng mất
đi nhiều. Trong thời phong kiến, tại mỗi lúc, may ra được một vài người
đỗ đạt, ngoài việc làm quan, còn tranh thủ lúc rỗi rãi làm
văn, làm thơ.
c.
Ảnh hưởng của địa lý và giao thương trắc trở lên
tư tưởng Việt trong thời phong kiến
Bản đồ Việt Nam
đến thời vua Lê chúa Trịnh về phía bắc, đông, tây đã gần ổn định như ngày
nay. Về phía nam thì mới đến xa nhất là đến Quảng Bình. Vị
trí địa lý thật hiểm trở, khó giao lưu vì nếu lấy Hà Nội làm trung tâm thì ba
phía núi non, một phía biển. Giao thông thời đó rất kém, đi lại chỉ bằng đường
mòn hoặc đường sông. Nguyễn Du đi sứ sang Trung Quốc, ở
lại Bắc Kinh có 20 ngày mà đi đường mất 14 tháng. Một trong các ông tổ của tôi
là tiến sĩ Đinh Nho Hoàn (1671 - 1715) đã chết trên đường đi sứ Trung
Quốc về vì đường đi quá vất vả. Năm 1980 bố tôi, là Thứ trưởng thứ nhất
Bộ Ngoại Giao Đinh Nho Liêm và cũng là Trưởng đoàn đàm phán của Việt Nam
với Trung Quốc về Chấm dứt Chiến tranh Biên giới phía Bắc 1979, đi sang
Bắc Kinh để để đàm phán, chỉ bay mất 4 giờ đồng hồ. Giao thương đường
biển của người Việt thở xưa hầu như chỉ ven bờ, tàu thuyền bé và thô sơ.
Các triều đại phong kiến Việt Nam
không chú trọng giao thương với bên ngoài. Vị trí địa lý đã cản trở giao lưu
của người, của hàng hóa, hạn chế rất nhiều đến sự phát triển của nước
Việt về mọi mặt, trong đó có tư tưởng lý luận.
Như vậy chữ
viết, đói nghèo, phương Bắc đô hộ, chiến tranh và hạn chế giao
thương trong thời phong kiến là các nhân tố góp phần hạn chế sự
phát triển của nước Việt và tư tưởng Việt.
5.
SỰ DU NHẬP KHÔNG ĐẦY ĐỦ CỦA CÁC TƯ TƯỞNG NGOẠI NHẬP VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI
PHONG KIẾN
Phần này có
thể hơi dài dòng và giống như liệt kê lịch sử. Tuy nhiên đây là
liệt kê lịch sử phát triển của lý luận tưởng Việt, và do vậy cũng phải
theo dòng lịch sử của nước Việt.
Trong những
giai đoạn lịch sử nhất định của nhân loại, những học thuyết, tư tưởng lớn chỉ
xuất hiện ở những vùng, những quốc gia hoặc những dân tộc nhất định. Thời cổ
đại các tư tưởng lớn đều xuất hiện ở Hy lạp - La mã, Trung Quốc, Ấn Độ.
Sang thời kỳ phong kiến nơi nảy sinh các tư tưởng lớn là châu Âu, Trung Quốc và
sau này là Hoa Kỳ. Do Thái là dân tộc đóng góp nhiều tư tưởng vĩ đại cho nhân
loại, ví dụ như nhà tư tưởng Karl Marx, nhà bác học Albert
Einstein, nhà tâm lý học Sigmund Freud đều là người
Do Thái. Việc du nhập tư tưởng vào một nước có thể do giao thương,
truyền đạo, có thể do nhu cầu du nhập tư tưởng để giải phóng dân tộc, có thể
do bị cưỡng bức trong thời kỳ ngoại xâm đô hộ.
Bài viết của
giáo sư Hà Văn Tấn đã nói rõ và nhấn mạnh về việc du nhập tư
tưởng ngoại nhập vào Việt Nam :
·
Các tư tưởng khi du nhập đến nước ta thường không đầy đủ,
hoàn thiện như ở nơi xuất xứ. Các tư tưởng du nhập thường không phải toàn bộ mà
chỉ là một phần. Ví dụ với Nho giáo, sách nào cần, dễ hiểu thì mới được nhập
sang. Các sách vở sâu xa hơn, nền tảng hơn không được nhập về.
·
Các tư tưởng ngoại nhập khi vào trong nước ta còn bị biến đổi cho
phù hợp với điều kiện chính trị kinh tế xã hội. Điều này cũng vừa có mặt hay,
vừa có mặt dở. Dân ta hiểu các tư tưởng ngoại nhập chưa chắc đã sâu, đã
đầy đủ do ngôn ngữ, trình độ, ngữ cảnh.
·
Việt Nam, giống một số nước châu Á khác, ngoài du nhập các tư
tưởng, tôn giáo từ Trung Hoa phong kiến, cũng du nhập, hay nói cách khác là bê
gần như nguyên si mô hình triều đình, hành chính, triết học, y học, lễ nghi,
thờ cúng, kiến trúc và nhiều thứ khác. Ngoài ra còn có sự du nhập
và hòa nhập của người Hán từ Trung Hoa với người cộng đồng người
Việt.
Như vậy không
gian tư duy, tư tưởng của dân tộc Việt bị ảnh hưởng, bị chi phối rất lớn
bởi các mô hình, tư tưởng ngoại nhập, chủ yếu là từ phương Bắc.
Tình hình
nước Việt ngay trước ngày Pháp xâm lược
Thời kỳ phong
kiến Việt Nam
ngay trước ngày Pháp xâm lược là thời kỳ rất loạn lạc và kém phát triển.
Hết cảnh vua Lê chúa Trịnh đến nội chiến Trịnh-Nguyễn, phong trào
Tây Sơn, quân Thanh xâm lược, chiến tranh nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.
Những sự kiện này được mô tả rất sinh động trong tác phẩm Hoàng Lê
Nhất Thống Chí. Nhà Nguyễn giành lấy đất nước từ nhà Tây Sơn.
Nguyễn Trường Tộ, một trí thức Việt Nam cấp tiến lúc đó, đã đề nghị nhiều cải
cách để phát triển đất nước. Tuy nhiên nhà Nguyễn đã không chấp nhận. Nhà
Nguyễn còn cấm các giáo sĩ phương Tây. Nhà Nguyễn thi hành chính sách coi trọng
phát triển nông nghiệp là chính: "di nông vi bản", “trọng
nông, ức thương” ( lại phải dùng tiếng Hán rồi ! ).
Như vậy ngay
trước khi Pháp xâm lược nước ta, kinh tế xã hội nước Việt phát
triển kém và tư duy tư tưởng các mặt không có gì mới, trừ tư tưởng cải cách của
Nguyễn Trường Tộ.
6.
TƯ TƯỞNG VIỆT TRONG THỜI KỲ PHÁP THUỘC, TRONG CHỐNG MỸ VÀ SAU 1975
Đây là các
thời kỳ mà lý luận tư tưởng Việt có rất nhiều biến động, thay
đổi và đồng thời cũng có nhiều điểm phức tạp và tế nhị, không dễ trình bày.
Thời kỳ
Pháp thuộc giai đoạn trước 1927
Sự kiện chính
trong giai đoạn này là các phong trào yêu nước chống Pháp với tư tưởng Cần
Vương (phò vua cứu nước). Tư tưởng chính trong giai đoạn này là tư
tưởng phò vua chống Pháp. Tại thời điểm này nước Việt có 3 ngôn ngữ
là Việt, Hán, Pháp và 4 loại chữ viết: Việt Nôm, Việt quốc ngữ, chữ
Hán, chữ Pháp ! .
Thời kỳ này
trí thức Việt đã bắt đầu có sự dịch chuyển từ Nho học sang Tây học.
Việc học, thi và dùng chữ Nho dần bỏ hẳn. Chinh sách của chủ nghĩa thực dân cũ
chỉ tập trung khai thác thuộc địa, không chú trọng khai phá trí thức văn minh
cho thuộc địa. Thực dân Pháp có đào tạo trí thức cũng chỉ để phục vụ cho
bộ máy hành chính thuộc địa. Do vậy Tây học phát triển khá chậm. Hệ thống giáo
dục theo mô hình Pháp dần được triển khai ở các trình độ khác nhau trên cả nước.
Thời kỳ
Pháp thuộc giai đoạn 1927- 1945
Phong trào yêu
nước chuyển từ cần vương sang dân chủ tư sản và chủ nghĩa cộng sản.
·
Quốc Dân Đảng, với lãnh tụ tiêu biểu là Nguyễn
Thái Học, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Tam Dân (dân tộc, dân quyền, dân
sinh) của Quốc Dân Đảng bên Trung Quốc với lãnh tụ là Tôn Trung
Sơn. Quốc Dân Đảng Việt Nam chủ trương đấu tranh vũ trang, thành lập nhà nước
độc lập cộng hòa theo con đường tư bản.
·
Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu chủ
trương, với ý định dựa vào Nhật để giải phóng dân tộc, xây dựng nhà nước
quân chủ lập hiến.
·
Phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh chủ
trương với nội dung cải cách dân trí, văn hóa, đòi độc lập dân tộc theo
con đường hòa bình và hướng đi theo tư bản chủ nghĩa theo mô hình Nhật Bản.
Phan Chu Trinh còn cùng với Lương Văn Can tổ chức phong trào Đông Kinh
Nghĩa Thục với nội dung : Bỏ lối học từ chương, du nhập những tư tưởng
mới, phát triển văn hoá, thúc đẩy sử dụng chữ quốc ngữ thông qua các hoạt động
giáo dục (dịch, viết sách giáo khoa), báo chí, tuyên truyền, cổ động. Chấn hưng
thực nghiệp. Mở tiệm buôn, phát triển công thương.
·
Từ 1925 các tổ chức cộng sản ở Việt Nam xuất hiện. Sự du nhập tư tưởng
cộng sản vào Việt Nam có 2 mục đích là giành độc lập dân tộc và mở
rộng ảnh hưởng của quốc tế cộng sản ra toàn Đông Dương, thành lập Liên Bang
XHCN Đông Dương ( do đó có giai đoạn Đảng CSVN có tên là Đảng Cộng Sản Đông
Dương ). Phong trào Xô Viết Nghệ-Tĩnh năm 1930 là một minh họa
cho việc du nhập nguyên si mô hình Xô Viết cùng với tư tưởng cộng sản từ
nước Nga vào Việt Nam.
Đã có sự
chuyển dịch hoàn toàn từ Nho học sang Tây học. Nhiều trường cao đẳng được
mở. Đã có nhiều du học sinh Việt ra nước ngoài để học tập, mà chủ yếu là du học
Pháp và học tập khoa học, công nghệ và đã thành tài như Trần Đại
Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu. Vẫn còn nhiều nhà trí thức nho học có
tài, có uy tín như Huỳnh Thúc Kháng, Tản Đà, Phạm Quỳnh, Ngô Tất Tố,
Phan Khôi, Phan Kế Toại.
Trong
giai đoạn này lý luận tư tưởng Việt về các mặt phát triển khá mạnh. Các
lý do của sự phát triển là do sự thay đổi chữ viết; sự du nhập tư tưởng văn hóa
phương Tây và các cuộc cải cách của các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật
Bản. Đây cũng là thời kỳ cực thịnh của văn học nghệ thuật
Việt Nam, được gọi là Thời Kỳ Tiền Chiến, với nhiều nhà văn,
nhà thơ, nhạc sĩ và trí thức nổi tiếng.
Thời kỳ
kháng chiến chống Pháp 1945 -1954
Từ 1945 đến
1950 nhiều nhà trí thức Nho học và Tây học đã tham gia và đóng góp
cho kháng chiến. Nội dung chủ yếu của công tác tư tưởng lý luận trong
giai đoạn này là phục vụ kháng chiến và bước đầu xây dựng nhà nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Giai đoạn
1950-1954 nhờ chiến dịch Biên Giới, Việt Nam đã giao lưu thuận tiện với phe
Xã Hội Chủ Nghĩa mà quan trọng nhất là với Trung Quốc. Theo các số liệu
lịch sử chính thức, Việt Nam
đã nhận được sự hỗ trợ của phe XHCN, chủ yếu là Trung Quốc về nhiều mặt: lương
thực, vũ khí, cố vấn quân sự, đào tạo cán bộ, chủ yếu là cán bộ quân sự. Thời
gian đó có một số cơ sở an dưỡng, huấn luyện đào tạo cán bộ của Việt Nam
bên Trung Quốc. Nhờ có sự giúp đỡ đó mà Việt Nam đã thắng trận Điện Biên
Phủ và ký được hiệp định Genève. Trong giai đoạn này Việt Nam bắt đầu
tiếp thu các lý luận tư tưởng về nhà nước và mô hình, tổ chức nhà
nước xã hội từ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Liên Xô và phe XHCN.
Thời
kỳ 1954 – 1965
Ở Miền Bắc nhà
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bắt đầu xây dựng cơ sở cho Chủ Nghĩa Xã
Hội, thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu tranh thống nhất
nước nhà và chuyên chính với kẻ thù dân tộc.
Việc xây
dựng và quản lý nhà nước căn cứ trên mô hình của phe XHCN mà chủ yếu là Trung
Quốc và có các dấu hiệu quá tả. Rất nhiều mô hình và cơ chế vẫn tồn
tại đến bây như các tổ chức Hội phụ nữ, Công đoàn, Đoàn thanh niên,
Đội thiếu niên và các tổ chức quần chúng khác. Kinh tế cũng theo mô hình của
Liên Xô hoặc của Trung Quốc. Đối với nông nghiệp, thực hiện cải cách ruộng đất
và hợp tác hóa. Thực hiện cải tạo tư sản công thương. Trong quá trình thực hiện
cải tạo nền kinh tế có nhiều biểu hiện của quá tả trong cải cách ruộng đất như coi
trung nông cũng là đối tượng cải tạo đấu tố, bỏ tù hay xử bắn. Bản chất dân
Việt ta đâu có độc ác với nhau như thế, chẳng qua là do học tập các phong trào
từ Liên Xô, Trung Quốc thời đó. Thi hành chính sách quốc hữu hóa toàn bộ tài
sản của giới tư sản. Kinh tế theo mô hình quản lý tập trung, nhà nước độc quyền
về sản xuất và phân phối. Chủ trương công nghiệp hóa theo mô hình của phe XHCN
với các nhà máy Gang Thép Thái Nguyên, Hóa Chất Việt Trì, Cơ Khí Trung Qui Mô (
nơi hiện nay là Royal City) v.v. . . Cơ sở của nông nghiệp là các hợp tác xã
nông nghiệp và nông trường quốc doanh. Hết sức hạn chế kinh tế tư nhân
cá thể và tư thương. Các mô hình này thường là bắt chước hay bê nguyên si từ
Liên xô, Trung Quốc. Nhiều mô hình duy ý chí giống như bên Trung Quốc, Liên Xô
cũ.
Các cán bộ học
sinh, là con em công nông binh có khả năng được cử đi học tập ở phe XHCN. Về
văn hóa văn nghệ có một số vấn đề với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm có tư tưởng
tự do trong nghệ thuật. Mẫu người lý tưởng được đề cao cho thanh thiếu niên
trong giai đoạn này là các thanh niên lao động chân tay, hy sinh cả cuộc đời
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản như Pavel Corsaghin ở Liên Xô hay Lôi
Phong ở Trung Quốc.
Ở miền Nam Mỹ
dần thay chân Pháp và ủng hộ Ngô Đình Diệm nắm quyền làm tổng thống nhà
nước Việt Nam Cộng Hòa. Ngô Đình Diệm theo chủ nghĩa quốc gia, lập nên đảng Cần
Lao Nhân Vị. Sau khi dẹp hết các phe phái khác như Hòa Hảo, Bình Xuyên, Ngô
Đình Diệm cai trị miền Nam với những khó khăn và hạn chế nhất định.
Chế độ Diệm bị đe dọa bởi lực lượng cộng sản nằm lại miền Nam và
được chi viện thêm từ miền Bắc. Diệm gây xung đột với Phật giáo. Ngô
Đình Diệm vốn là quan lại triều Nguyễn, cai trị miền Nam theo
lối gia đình trị và phong kiến, không muốn Mỹ can thiệp sâu vào miền Nam, do
cũng có tinh thần dân tộc. Đó chính là các lý do làm cho Ngô Đình Diệm bị
lật đổ, thay bằng chính quyền của các tướng trẻ, học Mỹ về, thân Mỹ. Kinh tế
miền Nam lúc đó cũng có một số biến đổi, phát triển tốt ở mức độ nhất
định theo hướng tư bản chủ nghĩa, một phần nhờ được Mỹ viện trợ khá nhiều, tuy
nhiên cũng chịu sự thao túng lớn của tư bản Hoa kiều. Các tư tưởng, văn
hóa Âu Mỹ cũng du nhập vào miền Nam ,
điển hình là chủ nghĩa hiện sinh, nhạc hiện đại Rock, Jazz. Tình hình
chính trị ở miền Nam
thời kỳ này cũng chứng tỏ lý luận tư tưởng, cụ thể đây là tư tưởng chính
trị của dân Việt là khá kém cỏi. Đảng Cần Lao Nhân Vị của Ngô Đình Diệm mặc dù
theo chủ nghĩa dân tộc, quốc gia nhưng lại mang phong cách phong kiến, độc tài
gia đình trị. Các đảng phái khác cũng rất yếu ớt , không có khả năng tập hợp
lực lượng tạo ra sức mạnh chính trị. Quyền lực thực chất do các tướng
lĩnh trẻ được Mỹ ủng hộ nắm giữ như Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn
Thiệu. Có lẽ đây là một trong các nguyên nhân làm cho miền Nam thất bại trước miền
Bắc. Hàn Quốc có cùng hoàn cảnh tương tự như miền Nam lúc đó nhưng các đảng
chính trị tỏ ra hoạt động có hiệu quả, thực sự góp phần vào công cuộc phát
triển Hàn Quốc. Nếu miền Nam cũng phát triển giống như Hàn
Quốc thì tình hình sẽ phức tạp hơn nhiều.
Thời kỳ
chống Mỹ 1965 – 1975
Đây là thời kỳ
chống ngoại xâm cực kỳ ác liệt và vinh quang của dân tộc ta. Đất nước ta,
dân tộc ta đã chiến thắng vẻ vang. Tuy nhiên tổn thất cũng rất lớn. Nền kinh
tế, nhất là kinh tế miền Bắc bị thiệt hại nặng nề. Hao tổn về sức người còn
đáng kể hơn. Nhiều nhân lực, tinh hoa của đất nước đã vào bộ đội, công an
và đã hy sinh trên chiến trường. Đây là những tổn thất khó bù đắp. Giai
đoạn này vẫn có nhiều cán bộ học sinh được cử đi học ở các nước XHCN. Lớp các cán
bộ học sinh đi học trước đó đã bắt đầu phát huy tác dụng và có nhiều nhà
khoa học có tầm cỡ trong khoa học cơ bản, khoa học kỹ thuật, khoa học xã
hội. Tuy nhiên việc cử người đi học ở giai đoạn này có điều dở là những
học sinh giỏi nhất lại toàn cử đi học khoa học cơ bản như toán, vật lý lý
thuyết hay các ngành khoa học cơ bản khác chứ không phải đi học kinh tế, dù
rằng có học kinh tế thì cũng là kinh tế XHCN. Điều này cũng gần giống chủ
trương Công Nghiệp Hóa XHCN.
Do giáo điều
và ấu trĩ cùng với việc đang chống Mỹ nên một số chủ trương chính sách về
con người trong giai đoạn này và giai đoạn 1954-1965 tỏ ra không
thích hợp như hạn chế con cháu địa chủ, tư sản, công chức lưu dung vào các đại
học lớn hay đi học nước ngoài nhưng lại không cấm vào ngành sư phạm
!.
Về cơ bản giai đoạn này tư tưởng lý luận chủ yếu tập trung vào vấn đề đường lối
chống Mỹ.
Thời kỳ
khủng hoảng kinh tế 1975 – 1986
Thời điểm giải
phóng miền Nam 1975 là một
cơ hội lớn để Việt Nam
phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên thực tế đây lại có thể coi là một trong
các thời kỳ phát triển rất kém của kinh tế Việt Nam , mà chủ yếu là do các chủ
trương, chính sách không đúng đắn về kinh tế. Sự yếu kém của tư tưởng Việt thể
hiện rất rõ trong giai đoạn này: duy ý chí, giáo điều, quá tả về phát triển
kinh tế. Một vài cán bộ lãnh đạo không biết gì về kinh tế, cũng nhảy sang
làm quản lý kinh tế. Mô hình kinh tế xã hội là tập trung, bao cấp, nhà nước nắm
và quản hết mọi thứ. Nhà nước tăng cường kiểm soát mọi mặt, hạn chế tối
đa kinh tế cá thể, tư nhân, hạn chế tối đa giao lưu hàng hóa ngoài mâu dịch
quốc doanh. Có một số mô hình kinh tế duy ý chí kiểu " chỉ với đôi
dép lốp, mo cơm quả cà cũng phải tiến lên Chủ Nghĩa Cộng Sản". Các
mô hình kinh tế điển hình là mô hình kinh tế cấp huyện mà điển hình
là hợp tác xã Định Công ở Thanh Hóa, hay mô hình công trường đại thủ
công như công trường xây hồ Kẻ Gỗ. Nhà nước nắm độc quyền sản xuất và
phân phối với việc phân phối nhu yếu phẩm theo tem phiếu, đồng thời ngăn sông,
cấm chợ, hạn chế kinh tế cá thể. Một số biện pháp hành chính quá tả được thực
hiện như đình chỉ sản xuất, tịch thu tài sản, dọa bỏ tù một số hộ sản xuất tư
nhân như vụ Vua Dép Lốp Nguyễn Văn Chẩn ở phố Nguyễn
Thái Học Hà Nội, hay việc khám nhà của những người có dấu hiệu giàu có.
Anh vợ tôi, hồi đó là thuyền trưởng tàu viễn dương, có cái máy nghe nhạc,
máy ảnh cũng phải gửi nhà tôi vì sợ bị khám, bị tịch thu. Một số cán bộ lãnh
đạo có tư tưởng cấp tiến về kinh tế đều bị kỷ luật. Đây là thời kỳ mức sống
toàn dân xuống khá thấp. Có thể khẳng định đây là giai đoạn có các sai lầm lớn
về phát triển kinh tế. Lý luận tư tưởng về các mặt khác cũng không có gì mới.
Những điểm yếu cơ bản của lý luận tư tưởng Việt bộc lộ rất rõ trong giai
đoạn này.
Thời kỳ đổi
mới 1986 - đến nay
Nhà nước Việt Nam với phong
trào đổi mới đã từng bước tự do hóa nền kinh tế, từng bước chấp nhận nền kinh
tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế. Đến thời điểm này nhà nước
thừa nhận có 4 thành phần kinh tế là nhà nước, tập thể, tư nhân và đầu tư nước
ngoài (FDI).
Trong giai
đoạn này phe XHCN đã sụp đổ, sự viện trợ về kinh tế và chỗ dựa về
cơ sở lý luận CNXH không còn nữa. Do đó đặt ra nhiều yêu cầu cho công tác
lý luận tư tưởng cho riêng nhà nước Việt Việt Nam .
Giai đoạn đầu
của đổi mới đã mang lại những kết quả nhất định, làm cho sản xuất phát
triển, đời sống toàn dân khá lên rõ rệt. Tuy nhiên khoảng 10 năm gần đây sự
phát triển kinh tế xã hội bắt đầu bộc lỗ những điểm yếu về nhiều mặt, và
tư duy, lý luận tư tưởng cũng có nhiều vấn đề cần xem xét kỹ:
·
Kinh tế phát triển chậm lại. Mô hình các tập đoạn lớn, các tổng
công ty nhà nước tỏ ra không hiệu quả, không những không có lãi mà còn làm lãng
phí, thất thoát quá lớn. Tài sản nhà nước, vốn ODA, chui vào túi
các cá nhân qua cổ phần hóa, phần trăm hoa hồng của hợp đồng kinh tế của
nhà nước. Kinh tế tư nhân phát triển không bền vững, có ảnh hưởng không tốt đến
nền kinh tế và phát triển xã hội. Thu nhập theo đầu người của Việt Nam
năm 2014 là khoảng 2052 USD, chỉ bằng 1/5 mức trung bình của thế giới và chỉ
bằng 1/3 Thái Lan.
. Tham nhũng, lãng phí phát triển rất đáng lo ngại.
Đã có dấu hiệu có âm mưu can thiệp vào chính trị, nhà nước của các tập
đoàn kinh tế nhà nước và tư nhân. Hình thành các nhóm lợi ích mưu toan
tranh dành lợi ích cục bộ. Đảng đã phải khôi phục lại Ban Nội Chính
Trung Ương và lập ra Ban chỉ đạo Trung Ương về phòng chống tham nhũng do đích
thân Tổng Bí Thư làm trưởng ban. Theo thống kê của Tổ chức Minh bạch
Thế giới năm 2014, chỉ số tham nhũng của Việt Nam là 31, xếp hạng
119/175, năm 2015 chỉ số tham nhũng Việt Nam vẫn là 31, xếp hạng 112/168
trong các nước được khảo sát trên toàn thế giới. Có vẻ như công
nhân viên chức, có thể vì lương quá thấp so với nhu cầu sống, đã tự trả lương
cho mình qua tham nhũng. Và có vẻ tham nhũng, buôn chức quyền là một
trong các hình thức kinh doanh lãi nhất. Tham nhũng cực kỳ tinh vi,
liên quan cực kỳ phức tạp, hầu như không thể tìm ra, không thể đưa
ra xét xử. Hình như chống tham nhũng bây giờ chẳng khác như chống chính bản
thân mình, và không ai muốn, không ai dám, không ai có thể chống tham nhũng.
·
Bộ máy quản lý nhà nước vẫn lạc hậu, theo cơ chế hành chính
bao cấp, thời chiến, và tỏ ra không thích hợp để phát triển kinh
tế, xã hội. Các báo cáo, thống kê về kinh tế xã hội không chính xác, một
chiều.
·
Lý luận tư tưởng phát triển không theo kịp yêu cầu của phát triển
kinh tế xã hội. Ví dụ đưa ra khái niệm " Kinh tế thị trường
định hướng XHCN " nhưng đến nay vẫn chưa giải thích rõ ý
nghĩa của khái niệm đó. Việc xây dựng pháp luật và giáo dục toàn dân tự
giác, sống theo pháp luật, sống có văn hóa tỏ ra rất yếu kém.
·
Theo nhận xét cuối năm 2015 của đại diện Ngân Hàng Thế Giới (World
Bank) tại Việt Nam về kinh tế Việt Nam: hết tiền đầu tư, nợ công tăng cao sát
trần, năng suất lao động tăng quá chậm. Đây là các dấu hiệu xấu cho nền kinh tế
Việt Nam .
. Nguồn thu, ngân sách trung ương, địa phương có dấu hiệu cạn kiệt.
Do vậy một số chủ trương chính sách mới về tài chính trong y tế, giáo
dục, giao thông và một số lĩnh vực khác là nhằm tăng nguồn thu ngân sách, nhưng
lại làm tăng gánh nặng chi tiêu lên người dân.
·
Vì phát triển kinh tế, kiếm tiền mà pháp luật, đạo đức, văn hóa có
biểu hiện thụt lùi do chay theo lợi ích kinh tế với bất cứ giá nào. Các bảo
tàng nổi tiếng, cơ quan nhà nước như bảo tàng Cách Mạng, bảo tàng Lịch Sử, bảo
tàng Mỹ Thuật, bảo tàng Quân Đội đều cho thuê đất, thuê nhà để kinh doanh nhà
hàng ăn uống, giải khát. Việc làm ăn được và giàu có được coi là tiêu
chuẩn quan trọng nhất để đánh giá con người. Thành ngữ "mạnh vì
gạo, bạo vì tiền" tỏ ra đúng trong giai đoạn này. Tâm lý con
người trong làm việc, kiếm sống vẫn có tâm trạng như trong giai
đoạn đói kém. Vì lợi ích kiếm tiền con người dễ dàng giả dối, lừa đảo, bất chấp
pháp luật và luật đạo đức. Đạo đức, văn hóa, văn minh rất xuống cấp. Một
số người trong tầng lớp mới giàu nổi (new rich) tỏ ra vô học, thiếu văn
hóa, thiếu đạo đức, thiếu cái gốc của một nhà tư bản chân chính.
·
Giáo dục không những không phát triển mà còn có nhiều yếu kém, gây
bức xúc trong xã hội do chất lượng thấp và gây nhiều tốn kém và vất vả cho các
gia đình có con đi học. Việc đào tạo và sử dụng nhân tài có nhiều vấn đề rất
nghiêm trọng. Bên cạnh các nguyên nhân khách quan thì tư tưởng, tư duy lý
luận về đường lối phát triển giáo dục sai lầm là nguyên nhân chính.
. Dân trí và mức sống của nhân dân hầu như không được nâng cao, cải
thiện.
·
Nhiều mặt khác cũng rất yếu kém như, quản lý nhà nước, thủ tục
hành chính, y tế, giao thông, giáo dục làm cho đời sống người dân ngày
càng vất vả.
·
Đô thị, nhất là thủ đô Hà Nội, phát triển không có qui hoạch cơ
bản, lâu dài và hợp lý. Kết quả là biến thủ đô thành một thành phố lộn xộn, ô
nhiễm ồn ào với giao thông, nhà cửa, buôn bán. Phố Lê Duẩn ở trung
tâm Hà Nội, bên cạnh công viên Thống Nhất thường xuyên có người dừng xe máy ,
ôtô đi tiểu tiện ngay bên vỉa hè. Hà Nội bao nhiêu năm hầu như
không có công trình nào đáng kể về kiến trúc mỹ thuật, ngoài cầu Nhật Tân
do Nhật giúp xây dựng. Phải chăng câu tục ngữ “Người làm sao, của chiêm bao
làm vậy” là đúng đối với người Việt ?.
·
Quan hệ không ổn định với Trung Quốc chưa có cách giải quyết
triệt để gây ra không ít khó khăn về các mặt xã hội, kinh tế, quốc phòng
cho Việt Nam .
Các nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trên có nhiều nhưng có một nguyên nhân chính là lý luận
tư tưởng của người Việt bế tắc và đặc biệt có nhiều vấn đề trong
giai đoạn hiện nay. Ví dụ như chính sách kinh tế chuyển từ kinh tế
tập trung XHCN sang kinh tế thị trường mà không có đường lối, sự
chỉ đạo, điều khiển, kiểm soát, một cách chuyên nghiệp. Đưa ra
thuật ngữ “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” mà chưa có sự giải
thích rõ ràng. Chưa có các chính sách đường lối phát triển cụ thể các mặt một
cách thích hợp. Do sự tham nhũng, sự phát triển hỗn loạn, yếu kém về
nhiều mặt nên Đảng đã phải khôi phục lại một số ban cũ của Trung Ương Đảng như
Ban Nội Chính, Ban Kinh Tế.
7. NGUỒN
GỐC VÀ CƠ SỞ CỦA TƯ TƯỞNG, TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY
Tư tưởng, tư
duy lý luận người Việt hiện nay có các nguồn gốc, có cơ sở hay bị ảnh hưởng
chủ yếu bởi các yếu tố sau:
. Tính bản địa và tính thừa kế của nước Việt: Đặc điểm về
lịch sử, dân tộc, đất đai, địa lý, khí hậu bản địa của nước Việt là
một yếu tố cơ bản tạo nên đặc điểm của tư tưởng, tư duy lý luận người
Việt hiện nay. Có thể gọi đó là yếu tố cục bộ, yếu tố bản địa.
. Ảnh hưởng của đô hộ và giao thương với phong kiến phương
Bắc với các đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão, với hệ thống hành
chính, giáo dục, kiến trúc, các nghi lễ sinh hoạt ( thờ cúng, ma chay, cưới xin
v.v. . .).
. Ảnh hưởng của văn minh phương Tây cũ thông qua chế độ thực dân cũ
của Pháp như hành chính, giáo dục văn hóa nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, đạo
Thiên Chúa.
. Ảnh hưởng của Chủ Nghĩa Cộng Sản và phe XHCN mà chủ yếu là Trung
Quốc vầ Liên xô trong giai đoạn từ 1930 ( thời điểm du nhập Chủ
Nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam )
đến năm 1989 ( năm sụp đổ của Liên Xô và phe XHCN). Rất nhiều người
đi học ở các nước phe XHCN và có nhiều sự giao lưu văn hóa tư tưởng với
phe XHCN trong giai đoạn này.
. Ảnh hưởng của xã hội và chế độ nước Việt Nam từ 1954 đến nay. Chú ý
việc tách yếu tố ảnh hưởng này ra khỏi yếu tố ảnh hưởng của
Chủ Nghĩa CS và phe XHCN ở trên có vẻ không được rõ ràng lắm nhưng
thực ra là cần thiết vì chế độ XHCN ở Việt Nam có đặc trưng riêng của mình và
có ảnh hưởng quan trọng hơn.
. Ảnh hưởng của văn minh Âu Mỹ qua sự can thiêp của Mỹ ở miền
Nam
trong giai đoạn 1954-1975
. Ảnh hưởng của văn minh Âu Mỹ và trên thế giới trong giai đoạn gần
đây qua sự giao lưu tích cực với phương Tây thông qua mở cửa, giao lưu
trao đổi văn hóa, giáo dục và số lượng sinh viên du học ngày càng tăng.
Như vậy phong cách, đặc điểm chung của tư tưởng, tư duy lý luận
Việt chịu sự tác động, ảnh hưởng chồng chéo hết sức phức tạp của
các yếu tố kể trên.
Để đánh giá cụ thể yếu tố nào ảnh hưởng như thế nào đến tính cách, tư duy tư
tưởng của người Việt chúng ta có vẻ khá khó khăn phức tạp. Ở mỗi con người Việt
cụ thể các ảnh hưởng này cũng thể hiện khác nhau. Ở mỗi cá nhân, các đặc điểm
chung của người Việt về tư tưởng, tư duy lý luận cùng với sử ảnh
hưởng của quê hương, dòng họ, gia đình, môi trường sống, học tập, làm
việc của người đó sẽ tạo nên một đặc thù tư tưởng, tư duy lý luận riêng
cho chính người đó. Như vậy tư tưởng, tư duy lý luận, suy nghĩ của một
người Việt cụ thể rất đa dạng, có thể từ hết sức đơn giản đến rất
phức tạp, tùy thuộc vào hoàn cảnh sống và lớn lên của họ. Điều đó giải thích
tại sao tư tưởng, tư duy lý luận của người Việt tuy khá thấp nhưng rất phong
phú và đa dạng, nhưng hình như có vẻ đa dạng quá mức cần thiết
chăng ?.
Ở đây có một
điểm cần chú ý là, so với Lào, Campuchia, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác,
nước Việt chịu ảnh hưởng cực mạnh và khá trực tiếp của hai luồng văn hóa tư
tưởng hơi cực đoan từ phong kiến Trung Quốc và từ hệ thống Chủ Nghĩa Cộng
Sản. Điều đó có khi lại là dở vì tư tưởng Việt vốn cứng rắn và bảo thủ,
kết hợp với hai luồng tư tưởng cực đoan đó đã hình thành một chế độ và xã
hội tương đối bảo thủ, khó thay đổi. Do vậy trong tương lai nhiều khả năng nước
Việt sẽ phát triển kém hơn thậm chí so với Campuchia và Lào, chứ
đừng nói so với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, hiện nay đều hơn Việt Nam về
nhiều mặt.
8.
CÁC NHÀ TƯ TƯỞNG LỚN CỦA VIỆT NAM .
ĐẶC
ĐIỂM CHUNG CỦA TƯ TƯỞNG VIỆT NAM .
SO
SÁNH TƯ TƯỞNG VIỆT NAM
VỚI CÁC NƯỚC KHÁC
Các nhà tư tưởng lớn của Việt Nam
Như ngay đầu
bài này đã khẳng định, các tư tưởng lớn của Việt Nam cho đến này chủ yếu là
yêu nước, quân sự và một ít về y học. Và do vậy các nhà tư tưởng lớn của
Việt Nam
đều là các anh hùng dân tộc, nhà yêu nước và một số nhà văn, danh y.
·
Các nhà yêu nước và quân sự có Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền,
Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Trần Nhân Tông, Quang Trung, Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp v.v. . .
·
Danh y có Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
·
Nhà văn có Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.
·
Nhà cải cách có Nguyễn Trường Tộ.
·
Triết học có Trần Đức Thảo
·
Toán học có nhà toán học Ngô Bảo Châu
Đặc điểm
chung của tư tưởng Việt Nam
Có
một bài viết nhan đề “10 đặc điểm của người Việt Nam trong mắt
người nước ngoài”, tôi xin đưa ra đây để mọi người tham khảo. Tuy nhiên
tôi cũng như một số người khác cho rằng tác giả bài này là người Việt vì chỉ có
người Việt mới hiểu người Việt như thế. Cụ thể các đặc điểm đó như sau:
1. Cần cù
lao động song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.
2. Thông
minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ
động.
3. Khéo
léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của
sản phẩm).
4. Vừa thực
tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.
5. Ham học
hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học "đến đầu đến đuôi"
nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không phải là mục
tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam
(nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì
chí khí, đam mê).
6. Xởi lởi,
chiều khách, song không bền.
7. Tiết
kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang,
thích hơn đời).
8. Có tinh
thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh,
trường hợp khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì
tinh thần này rất ít xuất hiện.
9. Yêu hòa
bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt,
đánh mất đại cục.
10. Thích
tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một
người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).
Có lẽ
không được nghiêm túc lắm trong một bài nghiên cứu nhưng riêng cá nhân tôi, tôi
thấy người Việt vừa có đặc điểm của Chí Phèo lại vừa có đặc điểm của A.Q. Có
nghĩa là vừa sống liều, sống không có luật pháp như Chí Phèo, vừa tự phụ và hay
dùng phép thắng lợi tinh thần như A.Q ! ? .
Các nhận
định trên đúng sai thế nào xin mời mọi người ngẫm nghĩ. Cá nhân tôi, tôi vẫn
nhất trí với ý kiến của giáo sư Hà Văn Tấn trong bài viết giáo sư là
tư tưởng người Việt Nam trong lịch sử hầu như là các tư tưởng về quân sự
cùng với một số tư tưởng về y học, văn học. Còn lại tư tưởng Việt hầu như
thiếu vắng các tư tưởng lớn về kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, nghệ
thuật kiến trúc. Một nhận định như thế thật là đáng buồn, đáng xấu
hổ, đáng lo cho người Việt chúng ta.
Một vấn đề cần
quan tâm là thuật ngữ “tầng lớp trí thức”, thuật ngữ
chỉ một nhóm người có vẻ chịu trách nhiệm chính về lý luận tư tưởng. Trí thức
thì vẫn có nhưng không nên có khái niệm về một “tầng lớp trí thức”,
một khái niệm thực tế không tồn tại vì liệu có ai tự cho mình không có học,
không có tri thức. Có lẽ chỉ nên phân biệt như phương Tây là công nhân cổ
trắng ( làm việc ở văn phòng, viện nghiên cứu) và công nhân cổ xanh (làm việc ở
nhà máy, trong trang trại nông nghiệp).
So sánh
Việt Nam
với một số nước
Có thể
nói dân tộc nào, quốc gia nào tồn tại đến ngày nay đều có sự vĩ đại riêng
của mình. Tuy nhiên mức độ vĩ đại, lĩnh vực vĩ đại thì khác nhau. Đó là thực tế
phải chấp nhận.
Các dân tộc,
quốc gia hàng đầu trên thế giới vĩ đại về nhiều mặt có thể kể ra là Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Pháp, Đức, Anh, Israel, Mỹ, Singapore. Quốc gia và
dân tộc Việt Nam
ta chỉ vĩ đại về mặt chống ngoại xâm, còn các mặt khác đều có nhiều điểm yếu
kém. Hơi dài dòng nhưng rất có ích việc xem xét một số quốc gia và dân tộc vĩ
đại sau đây:
·
Trung Quốc: Trung Quốc là nước và dân tộc ta cần
có sự quan tâm hết sức đặc biệt vì: 1. Việt Nam và Trung Quốc có một lịch sử
liên quan đặc biệt về mọi mặt. 2. Trung Quốc là nước hiện có sự thành công và
vai trò quan trọng trên thế giới. 3. Đối với Việt Nam Trung Quốc có vai trò rất
quan trọng về nhiều mặt: kinh tế, chính trị, an ninh.
Trung
Quốc là một trong nôi của nền văn minh nhân loại. Trong lịch sử cận
đại Trung Quốc cũng chịu nhiều biến động: nhà Thanh bị lung lay trước sức ép
của phương Tây rồi đến nội chiến, chiến tranh chống Nhật, cách mạng văn hóa.
Tuy nhiên Trung Quốc đã vượt qua tất cả và hiện nay nằm trong tốp 6 cường quốc
thế giới về mọi mặt. Các nhà tư tưởng và các tư tưởng của xưa và nay Trung Quốc
đều rất vĩ đại.
Một điều đến
giờ chưa thể giải thích được là tại sao Việt Nam , một nước có liên hệ mật thiết
với Trung Quốc trong lịch sử, địa lý, văn hóa hình như lại chưa học hỏi
được từ Trung Quốc những kinh nghiệm hay về phát triển. Và không những thế, mối
quan hệ Việt Nam -Trung Quốc
cũng đang ở trong trạng thái rất không ổn định, gây khó khăn cho Việt Nam về nhiều
mặt.
·
Nhật Bản: Nhật bản là một nước nghèo về tài
nguyên và cũng cóc văn hóa gắn với văn hóa Trung Hoa. Nhật Bản nhờ 2 sự
kiện lớn trong lịch sử là: 1. cách mạng Minh Trị Duy Tân 1867 học
tập theo mô hình phát triển của phương Tây. 2. Sau chiến tranh thế giới
thứ II, mặc dù là nước bại trận nhưng Nhật Bản đã tranh thủ sự hỗ trợ của Mỹ về
hỗ trợ kinh tế và bảo đảm an ninh (hiệp ước an ninh Nhật Mỹ) đề phát triển kinh
tế với tốc độ và kết quả kinh ngạc. Người Nhật có các phẩm chất đáng kinh ngạc
về ý thức trách nhiệm và kỷ luật, tinh thần cần cù và sáng tạo.
·
Israel : Israel (Do
Thái) là một dân tộc và quốc gia đáng kinh ngạc. Là một trong một số dân tộc
lâu đời nhất trong lịch sử loài người nhưng hàng ngàn năm không có quốc
gia cho đến tận năm 1947. Israel
giờ đây là một quốc gia hùng mạnh về mọi mặt tuy dân số chỉ khoảng 15 triệu
người. Dân tộc Israel
nổi tiếng trên toàn thể giới về kinh doanh, khoa học kỹ thuật và nhiều mặt
khác. Karl Marx, Einstein, nhà tâm lý học Sigmund Freud, đạo diễn Steven
Spielberg và 50% số các bác học đoạt giải Nobel có gốc Do
Thái. Một nửa các hoạt động kinh doanh lớn trên thế giới là của người Do Thái.
·
Singapore : Singapore là
một quốc gia châu Á kỳ diệu với những người dân kỳ diệu. Có điểm hơi đặc biệt
là 75% dân số Singapore
là người Hoa và lãnh tụ Lý Quang Diệu cũng là người gốc Hoa. Tuy
nhiên đường lối phát triển và chính sách của Singapore không giống Trung Quốc và
độc lập với Trung Quốc.
So với các
nước trên Việt Nam
có vẻ như yếu kém nhiều về lý luận tư tưởng và phát triển kinh tế
xã hội. Một điều còn đáng lo hơn là có vẻ dân ta chưa ý thức được sự yếu
kém đó để vươn lên.
Ảnh hưởng
của tư tưởng, tư duy kém
của
người Việt lên một số mặt của xã hội Việt Nam
Tư tưởng, tư
duy lý luận kém cũng góp phần vào nhiều cái kém cỏi của người Việt,
đất Việt. Sau đây một vài minh họa:
. Kiến trúc, nghệ thuật tạo hình nghèo nàn, chủ yếu bắt chước
nguyên xi Trung Quốc và Pháp. Trong thời phong kiến và thời Pháp còn được
một số công trình kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật đáng quan tâm. Còn về sau này
thì mọi thứ quá tệ, trừ gần đây nhất là cầu Nhật Tân. Còn ngay giữa thủ đô, sát
hồ Hoàn Kiếm có 3 công trình có thể coi là thảm họa của kiến trúc Việt là tòa
nhà Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội, tòa nhà Bưu điện Trung Tâm (
do Trung Quốc giúp xây), và tòa nhà Hàm Cá Mập ở quảng trường Đông Kinh Nghĩa
Thục. Không biết các nhà kiến trúc Việt nghĩ gì về 3 công trình này ?.
. Văn học thời kỳ phong kiến hầu như theo khuôn mẫu Tàu.
Đến thời kỳ Pháp thuộc, nhờ ảnh hưởng của phương Tây văn học có nhiều sự đổi
mới, sáng tạo, tác giả và tác phẩm tài năng, nhất là thời kỳ tiền chiến.
Thời kỳ chống Mỹ cũng có một số tác phẩm văn học tạm được. May mà người Việt
còn một số kiệt tác văn chương như Hịch tướng sĩ, Bình Ngô Đại Cáo, Truyện
Kiều, Chinh Phụ Ngâm. Ngôn ngữ văn học như từ ngữ, câu chữ hiện này cũng kém,
cũng thua xa ngôn ngữ thời tiền chiến với văn thơ của Nguyễn Tuân,
Nguyễn Công Hoan, Nam
Cao, Tô Hoài, Ngô Tất Tố, Nguyễn Bính, Tố Hữu v.v. . . Cá nhân
tôi chỉ thấy hiện nay có một số nhà văn có ngôn ngữ văn học với từ ngữ, câu văn
sáng sủa, chân phương, truyền cảm như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Việt Hà v.v. . . Nội dung, thể loại văn học chạy
theo văn học mạng Internet, văn học ngôn tình theo kiểu Trung Quốc. Thể loại
tạp văn, hồi ký có vẻ nở rộ.
. Các văn bản chính thống, báo chí, đài, vô tuyến hiện nay
nhiều khi dài dòng, lủng củng, hình thức, sáo rỗng, một chiều, không có thông
tin. Nhiều bài chỉ nghe qua tiêu đề đã biết cấu trúc và nội dung và năm
sau giống hệt năm trước . Một bài diễn văn, báo cáo, tổng kết, bài phát biểu
đại khái có lời lẽ, nội dung và bố cục như sau:" Nhân dịp. . .Theo kế
hoạch thì. . .Năm qua có nhiều khó khăn khách quan. . . Với sự chỉ đạo của cấp
trên và sự cố gắng toàn cơ quan . . ., Đã đạt được nhiều thành tích . .
.Vẫn còn nhược điểm, sai sót nhỏ cần khắc phục . . . Kế hoạch năm tới là . . .
Sẽ cố gắng và quyết tâm . . . Nhất định sẽ thành công. . .". Hầu
như không có lãnh đạo nào có khả năng nói không giấy, mà thường đọc các bài
viết do tổ thư ký chuẩn bị trước. Nếu lãnh đạo nào, có lúc nào đó nói ngoài
giấy tờ thì nói năng ề à, từ ngữ tầm thường, câu kéo lủng củng,
không rõ ý rõ lời, giống như cách nói của một bác nông dân lâu ngày
không ra thành phố.
. Giáo dục bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi sự yếu kém của tư
tưởng lý luận. Thời phong kiến giáo dục tuy vậy còn tuân theo cái sự chặt chẽ,
nghiêm khắc của Nho giáo, và có nhiều người giỏi như các cụ Huỳnh Thúc
Kháng, Phan Kế Toại, Ngô Tất Tố. Hay thời Pháp thuộc giáo dục tuân theo hệ
thống giáo Pháp, cũng có những ưu việt nhất định. Thời đó có một lớp trí thức
rất tài năng được đạo tạo theo hệ thống giáo dục Pháp tại Việt Nam
hoặc bên Pháp như các giáo sư Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc
Thạch, Trần Đức Thảo và nhiều trí thức, văn nghệ sĩ khác. Sau
này chịu ảnh hưởng thêm giáo dục của phe XHCN cùng với những cải
cách giáo dục được đề xuất vội vàng, thiếu khoa học. Và kết quả là giáo dục
ngày càng xuống cấp, tạo gánh nặng cho toàn xã hội và mọi gia đình. Giáo
dục là ngành phải đổi mới đầu tiên, đổi mới sâu sắc nhất, vì như
Bác Hồ đã nói " Vì sự nghiệp 10 năm trồng cây, vì sự nghiệp 100
năm trồng người".
. Các mặt khác như công thương kỹ nghệ qua các
thời kỳ cũng yếu kém trừ lý luận chiến tranh và y học cổ truyền. Điều đó thể
hiện qua các tài liệu lịch sử, văn học và các di tích, ta ít thấy dấu hiệu của
một nền sản xuất, thương mại phát triển mà chủ yếu là thể hiện của một
nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và buôn bán nhỏ.
Vấn đề thiên
tài và nhóm người ưu tú Việt Nam
Các dân tộc vĩ
đại, quốc gia vĩ đại trong lịch sử của mình đều có những thiên tài hoặc
một nhóm người ưu tú giúp đất nước vượt qua khó khăn hay có sự phát triển nhảy
vọt. Ví dụ cụ thể như:
. Nước Nga thời
xưa có Piốt đại đế (Peter I). Cách Mạng tháng Mười có Lênin và
hiện nay làPutin. Lênin vừa là một nhà cách mạng vừa là một nhà
quản lý nhà nước xuất sắc, đã có nhiều lý luận về nhà nước XHCN và đã
sáng suốt để xuất chính sách Kinh Tế Mới rất hợp lý, cho phép
tư bản tư nhân tạm thời tồn tại.
. Nước Pháp có Napoléon làm
cả châu Âu run sợ và tạo các nền tảng cơ bản nhiều mặt như hành chính, luật
pháp, giáo dục cho nước Pháp hiện đại bây giờ.
. Trung
Quốc có Đặng Tiểu Bình, người đã đưa Trung Quốc từ bị Cách
Mạng Văn hóa tàn phá trở thành một nước hùng cường về kinh tế, chính trị và
ngoại giao.
. Singapore có Lý
Quang Diệu, người tạo ra sự thần kỳ Singapore .
- Hàn Quốc có Park Chung Hee, lãnh tụ dẫn dắt Hàn Quốc trong
công cuộc cải cách và phát triển Hàn Quốc.
. Israel ,
Nhật Bản tuy không có cá nhân thiên tài nổi bật tầm thế giới thế giới
nhưng đều có những nhóm người lãnh đạo kiệt xuất, đem lại vinh quang cho đất
nước, cho dân tộc.
. Việt
Nam thì chỉ có mỗi chủ tịch Hồ Chí Minh giỏi trong
lĩnh vực đấu tranh giành độc lập. Các cá nhân lãnh đạo còn lại chỉ
khá trong lĩnh vực quân sự và chính trị, còn quản lý đất nước, phát triển kinh
tế xã hội thì có lẽ đều rất kém mà không biết mình kém. Và minh chứng cho
điều đó là tình trạng đất nước hiện nay. Điều đó rất phù hợp với nhận định của
giáo sư Hà Văn Tấn là người Việt chỉ giỏi quân sự, còn các lĩnh vực khác khá
kém cỏi. Theo cảm tính của cá nhân tôi thì trong 10 năm tới Việt Nam chưa thể xuất hiện một nhóm người Việt Nam ưu
việt có khả năng đưa đất nước thoát khỏi khó khăn hiện nay. Đó có lẽ là
một nhận định khá đáng buồn, khá tiêu cực và khá bi quan. Tôi huy vọng nhận
định trên của mình là sai !.
9.
CÁC VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN TƯ TƯỞNG
PHẢI GIẢI
QUYẾT HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Như phần trên
đã nói, Việt Nam
hiện này đang đối mặt với nhiều thách thức. Kinh tế phát triển kém, nợ công
cao, năng suất lao động thấp, thiếu nguồn vốn phát triển. Bộ máy hành
chính quan liêu, bao cấp, tham nhũng. Các mặt khác như văn hóa xã hội, môi
trường, giáo dục, y tế, giao thông, quan hệ với Trung Quốc v.v. . .cũng không
mấy sáng sủa. Một trong các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đó chính
là người Việt hoặc không có các lý luận tư tưởng thích hợp cho sự phát
triển trong giai đoạn vừa qua chứ chưa nói đến việc triển khai lý luận tư
tưởng nếu có. Có thể liệt kê một số vấn đề về lý luận tư duy hiện nay:
·
Lý luận tư tưởng thường tủn mủn, vụn vặt, giáo điều,
duy ý chí, một chiều, hình thức, có tính chất chắp vá, chữa cháy.
·
Nhiều ý tưởng kỳ quặc, rất vô lý nhưng vẫn tuyên
truyền và xã hội vẫn chấp nhận như “nhà cho người thu nhập thấp”, “rau
sạch”, ”xã hội hóa”, hay khẩu hiệu coi “đổi mới
giáo dục như một trận đánh” v. v. . . Phải chăng người Việt có
thói quen tự lừa dối mình và lừa dối nhau bằng các từ ngữ trống
rỗng, vô lý kiểu đó.
·
Hay dùng thuật ngữ, lý luận chung chung, sáo rỗng, ngụy biện để
biện minh cho sự yếu kém.
. Các nhà lãnh đạo các bậc từ cao, trung đến thấp
hầu như không được đào tạo cơ bản về quản lý nhà nước, kinh tế và các mặt khác,
tỏ ra yếu kém về chính trị, khả năng lãnh đạo, quản lý, khả năng chuyên
môn.
·
Nhiều tổ chức, mô hình, phong trào tỏ ra không còn thích hợp
nhưng vẫn tồn tại dù rất sáo rỗng, mất thì giờ, ví dụ như phong trào thi đua.
Đang tồn tại một số các tổ chức, hội quần chúng vô bổ, chồng chéo,
tốn kém. Ví dụ như đã có Đoàn Thanh Niên lại còn có Hội Thanh Niên
Sinh Viên. Đã có Công Đoàn hàng năm lại có Hội Nghị
Công Nhân Viên Chức. Chú ý rằng hầu hết các tư tưởng, tổ chức, mô hình,
phong trào hiện nay của nước ta đều bê nguyên si từ Trung Quốc, Liên Xô trong
những năm 1950 – 1970. Phải chăng với nước Việt, hoàn cảnh, tình hình là không
có gì thay đổi sau hơn 60 năm ?.
·
Việc tìm ra và sử dụng hợp lý những người có tài năng lãnh đạo,
quản lý, có trí thức giỏi, có năng lực để lãnh đạo, quản lý đất nước tỏ
ra rất nan giải.
·
Tư tưởng lý luận Việt về phát triển hiện nay đang phân vân giữa ổn
định xã hội và phát triển xã hội, không biết ưu tiên bên nào. Ưu tiên ổn
định xã hội thì sẽ phát triển kém và ngược lại ưu tiên phát triển thì lại
sợ mất ổn định xã hội. Người Việt vẫn còn có tâm trạng lo sợ mơ hồ, không rõ lý
do về sự đe dọa an ninh từ ngoài nước và ngay bên trong đất nước. Do vậy vẫn
chi tiêu quá lớn cho quốc phòng và an ninh. Có vẻ như người Việt sợ chính mình
là nhiều hơn ? ! .
·
Nếu tìm được tư tưởng lý luận, đường lối thích hợp thì cũng rất
khó triển khai vì tài nguyên của cải cạn kiệt, bộ máy nhà nước yếu kém,
con người yếu kém, thiếu ý thức trách nhiệm và thiếu ý thức tự giác.
Muốn thoát
khỏi hoàn cảnh hiện nay, muốn theo kịp các nước trên thế giới và khu vực, Việt Nam rõ ràng
phải thay đổi, đổi mới toàn diện, triệt để, nhanh chóng một
lần nữa về mọi mặt. Có thể gọi đó là công cuộc đổi mới lần thứ 2.
10. BÀN
THÊM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
Một số vấn đề
hoặc chưa được bàn kỹ, hoặc chưa được nhắc tới được đưa vào mục này.
a. Bài viết
này là một bài nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam và
các đặc điểm của tư tưởng Việt Nam
Đọc xong bài
viết này có một số bạn hỏi tôi mục đích nội dung bài viết là gì và tại sao
không đưa ra các giải pháp cho các vấn đề nêu ra. Tôi xin nhắc lại đây chỉ là
một bài nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu về lịch sử tư tưởng tư duy Việt Nam và các đặc điểm của tư tưởng lý luận Việt Nam . Việc đưa
ra các giải pháp khắc phục hết sức khó, vượt khỏi khả năng của tôi. Các giải
pháp cho tình hình hiện nay của Việt Nam
sẽ được đề cập trong một bài viết khác nhan đề: " Bàn về sự phát
triển của Việt Nam
trong tương lai ". Mong các bạn đón đọc.
b. Sự du
nhập không đầy đủ và bị biến đổi của các tư tưởng ngoại nhập là đặc điểm
quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam
Sự du nhập
không đầy đủ và bị biến đổi của tư tưởng gốc vào Việt Nam là vấn đề
nhiều khi rất dở, tôi xin giải thích thêm. Ta lấy một ví dụ là Nho giáo.
Xuất xứ Nho giáo là từ Trung Quốc, trong hoàn cảnh xã hội, lịch sử và thiên nhiên
Trung Quốc. Nho giáo có một ý nghĩa rất lớn lao qua hàng nghìn năm phát triển
của Trung Quốc và hiện này vẫn được coi trọng, vận dụng ở Trung Quốc. Từ Trung
Quốc du nhập sang Việt Nam Nho giáo trước hết là mất gốc, và chỉ được truyền
sang Việt Nam
một phần, có thể nói phần nổi, phần ngọn của đạo Nho do nhiều lý do như ngôn
ngữ, trình độ. Người Việt du nhập, hiểu, và dùng theo cách của mình và do
không hiểu sâu nên vận dụng máy móc, không biết tùy biến. Đạo Nho (đạo
Khổng), cũng như người Trung Quốc, nhiều chỗ rất thâm sâu mà người Việt mình
vốn hiền lành có khi không hiểu hết. Đạo Nho, ngoài việc là đạo của tự
nhiên, đạo của con người đạo của xã hội, còn là nguyên lý cai trị của nhà
nước phong kiến, liệu dân Việt ta đã hiểu hết không, đó là chưa nói đến vận
dụng. Ngoài ra nhiều triều đại phong kiến Việt Nam còn coi trọng cả đạo Nho
và đạo Phật cùng một lúc. Điều đó cũng có cái hay, cũng có cái dở. Đạo Phật chú
ý đến cái đức mà không đề cao phát triển xã hội, kinh tế. Hay ngay như Chủ
Nghĩa Cộng Sản, đã ra đời ở nước Đức, đã lớn mạnh ở Liên Xô, liệu người Việt đã
hiểu hết, đã vận dụng linh hoạt các nguyên lý của Chủ Nghĩa Cộng Sản chưa ?.
Trong khi đó ta thấy nước Đức, nước Nga hay ngay cạnh ta là Trung Quốc bây giờ
đều là cường quốc thế giới và họ vững vàng về lý luận phát triển đất nước của
họ như thế nào. Người Việt nên xem xét kỹ bản thân mình hơn nữa về tư
duy, lý luận tư tưởng, nếu không thì tình hình sẽ chẳng khá hơn dù có 10 năm
hay 30 năm nữa. Và có khi 10 năm nữa ta sẽ tụt hậu so với Campuchia và
Lào.
Một ví dụ khác
về việc hiểu lơ mơ về các tư tưởng bên ngoài là cách đây khoảng 40
năm tôi có đọc trên báo về một nghiên cứu sinh làm luận án tiến sĩ với đề
tài đại loại " Sự tha hóa của chủ nghĩa hiện sinh phương Tây".
Cái sai ở đây là sống ở Việt Nam
thì làm sao hiểu được tại sao chủ nghĩa hiện sinh ra đời và phổ biến ở
phương Tây. Hơn nữa không biết được chủ nghĩa hiện sinh lý đích thực, lý thuyết
mà chỉ biết qua các biểu hiện tự nhận là chủ nghĩa hiện sinh của tầng lớp
ăn chơi ở miền Nam
lúc đó. Đó còn là ví dụ về một cái dở của người Việt, đôi khi quá tự tin,
cho rằng cái gì mình cũng biết, cũng giỏi, cũng nói được, cũng làm được.
c. Chủ tịch
Hồ Chí Minh là nhà yêu nước có xu hướng thiên về dân tộc chủ nghĩa
Như sử chính
thống đã viết, Bác Hồ ra đi từ bến Nhà Rồng là tìm đường cứu nước, cứu dân. Mục
đích của Bác Hồ cũng giống như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu là mưu cầu
độc lập cho dân tộc, dân chủ và hạnh phúc cho nhân dân. Và Bác Hồ đã tìm
thấy chủ nghĩa cộng sản như một phương tiện để đạt ước mơ của mình. Như vậy Bác
Hồ đã du nhập Chủ Nghĩa Cộng Sản do nhu cầu của dân tộc, nhân dân. Bác Hồ có
những điểm khác so với một số lãnh tụ cộng sản lúc đó là Lê Hồng Phong, Trần
Văn Cừ là những người theo tinh thần quốc tế cộng sản triệt để, muốn xây dựng
một chế độ cộng sản ở toàn liên bang Đông Dương và do vậy có giai đoạn Đảng
Cộng Sản Việt Nam có tên là Đảng Cộng Sản Đông Dương. Bác Hồ vì dân tộc, hiểu
dân tộc và dựa vào đoàn kết toàn dân tộc, kể cả quan lại, địa chủ, tư sản
để giành độc lập dân tộc. Giai đoạn sau này một số người lãnh đạo
đã xa rời đường lối đoàn kết toàn dân của Bác Hồ, tiến hành cải cách ruộng đất
quá tả, tiến hành cải tạo tư bản công thương quá tay. Kết quả là gây nhiều
thiệt hại cho đất nước. Hiện nay Việt Nam lại phải thừa nhận tư bản
tư nhân. Ở đây ta lại thấy một tư tưởng ngoại nhập nếu vận dụng tốt thì rất có
lợi cho dân tộc, cho đất nước và ngược lại tư tưởng ngoại nhập được bê
nguyên si, áp dụng giáo điều hoặc được thay đổi cho phù hợp với ý muốn chủ
quan, duy ý chí của một vài cá nhân thì lại rất có hại.
d.
Người Việt hiện đang luẩn quẩn, đang không thoát ra khỏi cách tư
duy lý luận của chính mình. Kẻ thù lớn nhất của người Việt hiện nay chính là
bản thân mình.
Đó điều quan trọng nhất, khó khắc phục nhất, lâu khắc phục nhất hiện
nay ở nước ta
Lấy ví dụ như
người Nhật chẳng hạn, tư duy lý luận của họ rất rõ ràng, rành mạch. Làm việc
với họ, họ bày cho cách tư duy. Ví dụ, khi phải giải giải quyết
một vấn đề, họ nhắc phải xét đến 3 yếu tố quan trọng nhất: đầu
tiên là hoàn cảnh, sau đó là mục đích và cuối cùng là phương tiện.
Nghe có vẻ đơn giản nhưng họ nhắc nhở là phải đi đến bản chất của từng 3
yếu tố: Bản chất của hoàn cảnh, nguyên nhân của nguyên nhân vấn đề là
gì, sau đó mục đích của mục đích, mục đích cuối cùng là gì, cuối cùng là mới
tìm phương tiện của phương tiện. Họ lấy ví dụ rất sinh động là chim làm tổ
trên cột điện làm hỏng đường dây điện, cần phải đuổi chim. Lúc đầu đuổi
chim không ăn thua. Sau đó người ta thấy rằng mục đích là không để cho chim làm
hỏng đường dây điện và họ xây tổ cho chim trên đỉnh cột điện, và chim
không còn làm tổ ở chỗ cột điện có dây điện nữa. Người Việt ta thì hay nhầm lẫn
lung tung giữa hoàn cảnh, mục đích và phương tiện. Hiện nay tư tưởng lý luận
người Việt đang theo kiểu chờ sai sót, sai đâu thì sửa đấy. Biểu
hiện của kiểu tư tưởng này thể hiện rất rõ ở các lĩnh vực giáo dục, giao thông,
y tế và luật pháp và các lĩnh vực khác. Trong các lĩnh vực này thấy cái gì nổi
cộm, bức xúc, có vấn đề lại chỉnh một tí, sửa một tí. Sự luẩn quẩn
về tư duy tư tưởng này chắc chắn sẽ kéo dài rất lâu nữa. Tôi rất hy vọng
rằng khẳng định đó của cá nhân tôi là sai.
e.
Việt Nam phải bắt đầu từ đâu để thoát ra tình trạng yếu kém về tư
tưởng, lạc hậu về mọi mặt như hiện nay
Như ở trên tôi
đã nói, bài viết này là một bài nghiên cứu về lịch sử tưởng Việt Nam , do đó nội
dung của bài không nhất thiết phải có phần chỉ ra giải pháp cho các vấn đề. Tuy
nhiên theo gợi ý của một số bạn bè và suy nghĩ cá nhân, tôi cũng xin có một số
ý kiến sau:
. Người Việt trước hết phải nhận thức và thừa nhận được sự yếu
kém của người Việt về tư tưởng lý luận. Người Việt phải học tập các
dân tộc tiên tiến ưu việt khác. Người Việt phải sửa đổi nhanh chóng, toàn diện,
triệt để những yếu kém về tư tưởng lý luận của dân tộc Việt. Người Việt phải
nhận thấy kẻ thù lớn nhất hiện nay của người Việt chính là bản thân mình, mối
nguy cơ lớn nhất trước mắt của Việt Nam là sự tụt hậu của đất Việt so
với thế giới. Một đất nước Việt Nam có thu nhập theo đầu người là 2052
USD, chỉ bằng 1/5 mức trung bình của thế giới và chỉ bằng 1/3 Thailand và chỉ
số tham nhũng là 31, xếp hạng 119/171 nước trên toàn thế giới Theo
báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu CGI, năm 2015, Việt Nam có thứ hạng 56/140
nền kinh tế. Các lĩnh vực khác Việt Nam có thứ hạng thấp gồm: Thể chế
(85/140); Phát triển thị trường tài chính (84/140); Đào tạo và giáo dục sau
tiểu học (95/140); Cơ sở hạ tầng (76/140); Trình độ kinh doanh (100/140); Sẵn
sàng công nghệ (92/140); Đổi mới sáng tạo (73/140) Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam phối hợp với Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP)
lập báo cáo và cho biết: Chỉ số phát triển con người ( HDI) năm
2014, Việt Nam được xếp thứ 116/188 nước, tức là ở thứ hạng trên của nhóm các
nước có mức phát triển con người trung bình. Với các số liệu xếp hạng
thế giới như vậy mà dân Việt không mấy người lo lắng, xấu hổ thì thật là nguy
to cho dân tộc Việt Nam .
. Việt Nam
phải chống được tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Đây là điều kiện tiên
quyết và cực kỳ khó.
. Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới lần thứ 2, phải đổi
mới triệt để, toàn diện, sâu sắc. Phải đổi mới ngay trong Đảng, trong
Chính quyền, trong Nhân dân và trên toàn đất nước, về mọi mặt. Điều này rất
khó, cực kỳ khó.
. Việt Nam phải tập hợp được những người Việt ưu tú nhất,
chân chính và yêu nước trong và ngoài Đảng, trong và ngoài nước để tập
trung trí tuệ tiến hành công cuộc đổi mới lần thứ 2 một cách sâu sắc,
toàn diện và triệt để. Đây là điều rất không dễ.
. Việt Nam
phải thức tỉnh, phải làm cho toàn dân ý thức được mối nguy trong tương lai là
sự ngày càng tụt hậu của đất nước. Phải phát động một phong trào yêu nước
xây dựng đất Việt phồn vinh giống như các phong trào yêu nước chống giặc ngoại
xâm trước đây. Đây cũng là điều cực kỳ khó.
. Việt Nam
phải đoàn kết được toàn dân Việt trong và ngoài nước cùng chung tay
xây dựng đất nước Việt Nam.
. Việt Nam
phải nhận rõ mục đích cuối cùng là độc lập dân tộc, hạnh phúc nhân dân, phồn
vinh nước Việt. Còn lại tất cả chỉ là phương tiện. Quan trọng nhất là chọn
được đường lối đúng đắn và thực thi được đường lối đó. Đây cũng là điều
cực kỳ khó.
Nói như trên
thì có vẻ quá chung chung, ai cũng nói được. Tuy nhiên đây là một bài nghiên
cứu lịch sử nên không tiện nói kỹ, nói chi tiết. Tôi xin hẹn trong một
bài viết khác sẽ trình bày rõ hơn về những vấn đề này.
11.
KẾT LUẬN
Xin nhắc lại
Việt Nam
chắc chắn phải đổi mới một lần nữa. Vấn đề là bắt đầu từ đâu, bắt đầu như
thế nào. Đó là việc hết sức khó khăn. Trong những nội dung quan trọng, phải đổi
mới ngay, đổi mới trước tiên là tư duy, lý luận tư tưởng. Phải chọn
được các giải pháp phát triển cho mọi lĩnh vực, chọn những nhà quản lý,
lãnh đạo có năng lực, có đạo đức. Cuối cùng là phải huy động toàn dân thực hiện
các giải pháp đã đề ra.
Để kết
luận, tôi tóm tắt các ý chính của bài như sau:
- Khẳng
định lại nhận định của giáo sư Hà Văn Tấn là: trong lịch sử phát triển của dân
tộc, lý luận tư tưởng Việt Nam là thiếu và kém về hầu hết mọi lĩnh
vực trừ lý luận tư tưởng về quân sự và một ít về y học cổ truyền. Việc du nhập
và vận dụng các tư tưởng ngoại nhập cũng rất kém.
- Lo
lắng về một khả năng đang sợ cho sự phát triển của Việt Nam là lý luận tư tưởng
của Việt Nam sẽ vẫn quanh quẩn nhỏ nhoi, tủn mủn, vụn vặt, thiếu
kém như bao nhiêu năm qua với các thử nghiệm và sai lầm.
- Nghĩ
kém thì làm cũng kém, và kết quả là tình trạng tụt hậu, kém phát triển như hiện
nay. Kẻ thù lớn nhất của người Việt hiện này chính là bản thân mình. Phải có sự
thay đổi ngay về tư duy, lý luận tư tưởng và áp dụng cho được các đổi mới
đó. Việt Nam phải tiến hành ngay công cuộc chấn hưng nước Việt một
cách toàn diện, triệt để, sâu sắc. Có làm như vậy thì dân tộc Việt Nam, đất
nước Việt Nam
mới có thể phát triển và đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
- Bốn trụ cột của công cuộc chấn hưng nước Việt:
+ Đổi mới tư duy tư tưởng của người Việt
+ Đổi mới trong Đảng CSVN
+ Chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí
+ Thực hiện công cuộc đổi mới lần thứ 2
12. TÀI
LIỆU THAM KHẢO
[1] GS Hà Văn Tấn. Đến với
lịch sử văn hóa Việt Nam .
Bài ” Mấy suy nghĩ về lịch sử Việt Nam
và tư tưởng Việt Nam ”
. nhà XB Hội Nhà Văn, năm XB 2005.
[2] GS Trần Đình Hượu. Lịch sử tư
tưởng Việt Nam
thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
[3]. GS TS Vương Đình Huệ, ủy viên BCT, trưởng Ban Kinh Tế
TW. "Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc
tế". Bài viết 2016.
http://vtc.vn/truong-ban-kinh-te-trung-uong-5-giai-phap-thuc-day-nang-luc-canh-tranh-quoc-gia.2.592027.htm#home|news
[4] Bộ trưởng Bộ Kế Hoạch Đầu Tư Bùi Quang
Vinh. "Tham luận tại Đại Hội Đảng lần thứ 12".
http://www.baomoi.com/Toan-van-tham-luan-cua-Bo-truong-Bui-Quang-Vinh-tai-Dai-hoi-XII/c/18511855.epi
[5] Website vi.wikipedia.org. Các
thông tin về lịch sử và số liệu về các quốc gia.
[6] Một số sách vở, tài liệu và trang
Web khác.
Cảm ơn các bạn đã đọc bài này. Mong các bạn có sự
góp ý và trao đổi.
Hà nội, cập nhật ngày 03/02/2016
Đinh Hùng
tư tưởng Việt trong thời phong kiến
Về cơ bản giai đoạn này tư tưởng lý luận chủ yếu tập trung vào vấn đề đường lối chống Mỹ.
. Tham nhũng, lãng phí phát triển rất đáng lo ngại. Đã có dấu hiệu có âm mưu can thiệp vào chính trị, nhà nước của các tập đoàn kinh tế nhà nước và tư nhân. Hình thành các nhóm lợi ích mưu toan tranh dành lợi ích cục bộ. Đảng đã phải khôi phục lại Ban Nội Chính Trung Ương và lập ra Ban chỉ đạo Trung Ương về phòng chống tham nhũng do đích thân Tổng Bí Thư làm trưởng ban. Theo thống kê của Tổ chức Minh bạch Thế giới năm 2014, chỉ số tham nhũng của Việt Nam là 31, xếp hạng 119/175, năm 2015 chỉ số tham nhũng Việt Nam vẫn là 31, xếp hạng 112/168 trong các nước được khảo sát trên toàn thế giới. Có vẻ như công nhân viên chức, có thể vì lương quá thấp so với nhu cầu sống, đã tự trả lương cho mình qua tham nhũng. Và có vẻ tham nhũng, buôn chức quyền là một trong các hình thức kinh doanh lãi nhất. Tham nhũng cực kỳ tinh vi, liên quan cực kỳ phức tạp, hầu như không thể tìm ra, không thể đưa ra xét xử. Hình như chống tham nhũng bây giờ chẳng khác như chống chính bản thân mình, và không ai muốn, không ai dám, không ai có thể chống tham nhũng.
. Nguồn thu, ngân sách trung ương, địa phương có dấu hiệu cạn kiệt. Do vậy một số chủ trương chính sách mới về tài chính trong y tế, giáo dục, giao thông và một số lĩnh vực khác là nhằm tăng nguồn thu ngân sách, nhưng lại làm tăng gánh nặng chi tiêu lên người dân.
. Dân trí và mức sống của nhân dân hầu như không được nâng cao, cải thiện.
. Tính bản địa và tính thừa kế của nước Việt: Đặc điểm về lịch sử, dân tộc, đất đai, địa lý, khí hậu bản địa của nước Việt là một yếu tố cơ bản tạo nên đặc điểm của tư tưởng, tư duy lý luận người Việt hiện nay. Có thể gọi đó là yếu tố cục bộ, yếu tố bản địa.
. Ảnh hưởng của đô hộ và giao thương với phong kiến phương Bắc với các đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão, với hệ thống hành chính, giáo dục, kiến trúc, các nghi lễ sinh hoạt ( thờ cúng, ma chay, cưới xin v.v. . .).
. Ảnh hưởng của văn minh phương Tây cũ thông qua chế độ thực dân cũ của Pháp như hành chính, giáo dục văn hóa nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, đạo Thiên Chúa.
. Ảnh hưởng của Chủ Nghĩa Cộng Sản và phe XHCN mà chủ yếu là Trung Quốc vầ Liên xô trong giai đoạn từ 1930 ( thời điểm du nhập Chủ Nghĩa Cộng Sản vào Việt
. Ảnh hưởng của xã hội và chế độ nước Việt
. Ảnh hưởng của văn minh Âu Mỹ qua sự can thiêp của Mỹ ở miền
. Ảnh hưởng của văn minh Âu Mỹ và trên thế giới trong giai đoạn gần đây qua sự giao lưu tích cực với phương Tây thông qua mở cửa, giao lưu trao đổi văn hóa, giáo dục và số lượng sinh viên du học ngày càng tăng.
Như vậy phong cách, đặc điểm chung của tư tưởng, tư duy lý luận Việt chịu sự tác động, ảnh hưởng chồng chéo hết sức phức tạp của các yếu tố kể trên.
Để đánh giá cụ thể yếu tố nào ảnh hưởng như thế nào đến tính cách, tư duy tư tưởng của người Việt chúng ta có vẻ khá khó khăn phức tạp. Ở mỗi con người Việt cụ thể các ảnh hưởng này cũng thể hiện khác nhau. Ở mỗi cá nhân, các đặc điểm chung của người Việt về tư tưởng, tư duy lý luận cùng với sử ảnh hưởng của quê hương, dòng họ, gia đình, môi trường sống, học tập, làm việc của người đó sẽ tạo nên một đặc thù tư tưởng, tư duy lý luận riêng cho chính người đó. Như vậy tư tưởng, tư duy lý luận, suy nghĩ của một người Việt cụ thể rất đa dạng, có thể từ hết sức đơn giản đến rất phức tạp, tùy thuộc vào hoàn cảnh sống và lớn lên của họ. Điều đó giải thích tại sao tư tưởng, tư duy lý luận của người Việt tuy khá thấp nhưng rất phong phú và đa dạng, nhưng hình như có vẻ đa dạng quá mức cần thiết chăng ?.
Các nhà tư tưởng lớn của Việt Nam
. Kiến trúc, nghệ thuật tạo hình nghèo nàn, chủ yếu bắt chước nguyên xi Trung Quốc và Pháp. Trong thời phong kiến và thời Pháp còn được một số công trình kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật đáng quan tâm. Còn về sau này thì mọi thứ quá tệ, trừ gần đây nhất là cầu Nhật Tân. Còn ngay giữa thủ đô, sát hồ Hoàn Kiếm có 3 công trình có thể coi là thảm họa của kiến trúc Việt là tòa nhà Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội, tòa nhà Bưu điện Trung Tâm ( do Trung Quốc giúp xây), và tòa nhà Hàm Cá Mập ở quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Không biết các nhà kiến trúc Việt nghĩ gì về 3 công trình này ?.
. Văn học thời kỳ phong kiến hầu như theo khuôn mẫu Tàu. Đến thời kỳ Pháp thuộc, nhờ ảnh hưởng của phương Tây văn học có nhiều sự đổi mới, sáng tạo, tác giả và tác phẩm tài năng, nhất là thời kỳ tiền chiến. Thời kỳ chống Mỹ cũng có một số tác phẩm văn học tạm được. May mà người Việt còn một số kiệt tác văn chương như Hịch tướng sĩ, Bình Ngô Đại Cáo, Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm. Ngôn ngữ văn học như từ ngữ, câu chữ hiện này cũng kém, cũng thua xa ngôn ngữ thời tiền chiến với văn thơ của Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan,
. Các văn bản chính thống, báo chí, đài, vô tuyến hiện nay nhiều khi dài dòng, lủng củng, hình thức, sáo rỗng, một chiều, không có thông tin. Nhiều bài chỉ nghe qua tiêu đề đã biết cấu trúc và nội dung và năm sau giống hệt năm trước . Một bài diễn văn, báo cáo, tổng kết, bài phát biểu đại khái có lời lẽ, nội dung và bố cục như sau:" Nhân dịp. . .Theo kế hoạch thì. . .Năm qua có nhiều khó khăn khách quan. . . Với sự chỉ đạo của cấp trên và sự cố gắng toàn cơ quan . . ., Đã đạt được nhiều thành tích . . .Vẫn còn nhược điểm, sai sót nhỏ cần khắc phục . . . Kế hoạch năm tới là . . . Sẽ cố gắng và quyết tâm . . . Nhất định sẽ thành công. . .". Hầu như không có lãnh đạo nào có khả năng nói không giấy, mà thường đọc các bài viết do tổ thư ký chuẩn bị trước. Nếu lãnh đạo nào, có lúc nào đó nói ngoài giấy tờ thì nói năng ề à, từ ngữ tầm thường, câu kéo lủng củng, không rõ ý rõ lời, giống như cách nói của một bác nông dân lâu ngày không ra thành phố.
. Giáo dục bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi sự yếu kém của tư tưởng lý luận. Thời phong kiến giáo dục tuy vậy còn tuân theo cái sự chặt chẽ, nghiêm khắc của Nho giáo, và có nhiều người giỏi như các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Ngô Tất Tố. Hay thời Pháp thuộc giáo dục tuân theo hệ thống giáo Pháp, cũng có những ưu việt nhất định. Thời đó có một lớp trí thức rất tài năng được đạo tạo theo hệ thống giáo dục Pháp tại Việt Nam hoặc bên Pháp như các giáo sư Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Trần Đức Thảo và nhiều trí thức, văn nghệ sĩ khác. Sau này chịu ảnh hưởng thêm giáo dục của phe XHCN cùng với những cải cách giáo dục được đề xuất vội vàng, thiếu khoa học. Và kết quả là giáo dục ngày càng xuống cấp, tạo gánh nặng cho toàn xã hội và mọi gia đình. Giáo dục là ngành phải đổi mới đầu tiên, đổi mới sâu sắc nhất, vì như Bác Hồ đã nói " Vì sự nghiệp 10 năm trồng cây, vì sự nghiệp 100 năm trồng người".
. Các mặt khác như công thương kỹ nghệ qua các thời kỳ cũng yếu kém trừ lý luận chiến tranh và y học cổ truyền. Điều đó thể hiện qua các tài liệu lịch sử, văn học và các di tích, ta ít thấy dấu hiệu của một nền sản xuất, thương mại phát triển mà chủ yếu là thể hiện của một nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và buôn bán nhỏ.
Vấn đề thiên tài và nhóm người ưu tú Việt Nam
- Hàn Quốc có Park Chung Hee, lãnh tụ dẫn dắt Hàn Quốc trong công cuộc cải cách và phát triển Hàn Quốc.
. Các nhà lãnh đạo các bậc từ cao, trung đến thấp hầu như không được đào tạo cơ bản về quản lý nhà nước, kinh tế và các mặt khác, tỏ ra yếu kém về chính trị, khả năng lãnh đạo, quản lý, khả năng chuyên môn.
Đó điều quan trọng nhất, khó khắc phục nhất, lâu khắc phục nhất hiện nay ở nước ta
. Người Việt trước hết phải nhận thức và thừa nhận được sự yếu kém của người Việt về tư tưởng lý luận. Người Việt phải học tập các dân tộc tiên tiến ưu việt khác. Người Việt phải sửa đổi nhanh chóng, toàn diện, triệt để những yếu kém về tư tưởng lý luận của dân tộc Việt. Người Việt phải nhận thấy kẻ thù lớn nhất hiện nay của người Việt chính là bản thân mình, mối nguy cơ lớn nhất trước mắt của Việt
. Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới lần thứ 2, phải đổi mới triệt để, toàn diện, sâu sắc. Phải đổi mới ngay trong Đảng, trong Chính quyền, trong Nhân dân và trên toàn đất nước, về mọi mặt. Điều này rất khó, cực kỳ khó.
. Việt Nam phải tập hợp được những người Việt ưu tú nhất, chân chính và yêu nước trong và ngoài Đảng, trong và ngoài nước để tập trung trí tuệ tiến hành công cuộc đổi mới lần thứ 2 một cách sâu sắc, toàn diện và triệt để. Đây là điều rất không dễ.
- Bốn trụ cột của công cuộc chấn hưng nước Việt:
+ Đổi mới tư duy tư tưởng của người Việt
+ Đổi mới trong Đảng CSVN
+ Chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí
+ Thực hiện công cuộc đổi mới lần thứ 2
[3]. GS TS Vương Đình Huệ, ủy viên BCT, trưởng Ban Kinh Tế TW. "Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế". Bài viết 2016.
http://vtc.vn/truong-ban-kinh-te-trung-uong-5-giai-phap-thuc-day-nang-luc-canh-tranh-quoc-gia.2.592027.htm#home|news