Rượu có từ hơn
8.000 năm trước công nguyên và người ta bảo đó là một phát minh vĩ đại của loài
người, sau lửa. Từ đó, "Phi tửu bất thành lễ" (không rượu chưa thành lễ), không
rượu cuộc đời cũng nhạt nhẽo buồn chán. Khi vui, lúc buồn người ta
đem rượu ra uống. Đám cưới uống chén rượu chung vui, đám tang cầm chén
rượu chia buồn. Ăn uống là một thứ văn hóa ẩm thực và uống rượu cũng là
một nét văn hoá - văn hoá uống rượu.
Lưu Linh tên chữ
là Bá Luân, người đời Tấn, Trung Quốc. Ông là một người trong nhóm Trúc lâm
thất hiền (bảy người hiền trong rừng
trúc), tính tình phóng khoáng, thích uống rượu. Và, uống không biết say.
Ông có làm bài thơ "Tửu đức tụng" ca tụng đức uống rượu:
"Có bậc tiên sinh đại nhân, lấy đất trời làm một buổi, vạn ngày
làm thoáng chốc, nhật nguyệt làm then phên, lấy khắp bốn phương tám hướng làm
sân ngõ. Đi về không dấu vết, ở chẳng nhà cửa, màn trời chiếu đất, tự
do tự tại. Dừng lại thì nâng chén ôm bầu, khi đi thì đeo bình đeo
nậm. Duy lúc này chỉ có rượu là hay, ngoài ra thì còn việc gì nữa?" (Dịch đoạn đầu).Nhờ bài thơ này mà
Lưu Linh được lưu danh trong thiên hạ.
Người xưa chia
cảm nhận rượu ra các cung bậc. Đi qua bao đời, ta thấy có những người uống rượu
rất hay, và có những người rất dở; có những bậc hiền tửu, tiên tửu, và cũng có
loại cuồng tửu, cẩu tửu. Uống rượu lợi hay hại, người ta đã nói rất nhiều,
nhưng câu trả lời đang còn ở phía trước, tuỳ từng người, và từng trường hợp. Ở
đây, tôi chỉ muốn giới thiệu một phương diện văn hoá của văn nghệ sỹ: uống rượu.
Đối với một số người, "Rượu kích thích lòng ham muốn, nhưng lại
thiêu trụi tài năng" (W.
Shakespeare). Đối với phần lớn văn nghệ sỹ, uống rượu như một nhu cầu để
sống và viết. Cách uống rượu của họ cũng khác với nhiều người. Họ uống
rượu không phải vì nghiện rượu, mà rượu chỉ là một trong những điều kiện để cảm
xúc thăng hoa. Chúng ta có thể trân trọng những người biết dùng rượu như họ.
Dùng rượu mà có những tinh hoa nghệ thuật đế đời thì cũng được chứ sao!
Sau đây là một
số trường hợp văn nghệ sỹ Việt Nam uống rượu có tính điển hình, tôi kiếm tìm từ
sách báo, tổng hợp từ internet, có chắt lọc, chỉnh sửa, trình bày thành
một ghi chép liền mạch, dễ hiểu, để chúng ta cùng tham khảo.
1. Tản Đà (1889 - 1939):
Tản Đà nói về thơ, rượu:
Trời đất sinh ra thơ với rượu
Không thơ, không rượu sống như thừa
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ
(Ngày xuân thơ rượu)
Ông biện minh cho cái sự say của mình:
Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thì hư vậy, say thời cứ say
Đất say, đất cũng lăn quay
Trời say, mặt cũng đỏ gay, ai cười?
(Lại say)
Trong cuốn Văn thi sĩ tiền chiến, nhà văn
Nguyễn Vỹ kể: "Sau khi tuần báo Phụ nữ đăng bài thơ Gởi Trương Tửu của
tôi, một buổi chiều tôi đến chơi ở tòa báo, bỗng thi sĩ Tản Đà từ bên ngoài
bước vào. Một chiếc khăn đóng đã viền mòn, đáng lẽ đội trên đầu ông lại đeo tòn
teng trong cánh tay. Vẫn chiếc áo lương thâm cũ mà tôi đã thấy ông mặc năm năm
trước. Ông hỏi cô thư ký: "Có ông Nguyễn Vỹ ở đây không?". Cô bạn
cười chỉ tôi: "Thưa ông, Nguyễn Vỹ đây ạ"... Ông đưa tôi lên tàu
điện, phố Hàng Bông. Nửa giờ sau đến một gian nhà ở ấp Thái Hà, nhà của ông.
Ông lấy chai rượu và hai cái cốc ra. Tôi không biết uống rượu, nhưng vì xã giao
không dám nói ra, sợ phật ý thi sĩ có tiếng là "Lưu Linh Việt Nam". Tôi
cứ để mặc ông rót rượu ra cốc... ông bắt đầu hỏi tôi: "Tôi thích bài thơ
Gởi Trương Tửu của ông, nên mời ông uống rượu. Trương Tửu là ai?".
"Thưa cụ, bạn cháu ạ". "Ông ấy có biết uống rượu không?".
"Dạ, anh ấy tên là Trương Tửu, thì cụ khỏi hỏi! Vả lại dòng dõi Trương Phi
đấy ạ!". "Hôm nào rủ ông ấy đến uống rượu với tôi".
"Dạ". "Nhưng tôi giận ông lắm vì một câu trong bài thơ của ông.
Tôi định gặp ông thì tôi bảo". "Thưa cụ, câu nào ạ?". "Sao
ông lại bảo: Nhà văn An Nam khổ như chó? Ông so sánh nhà văn chúng ta với kiếp
chó, mà ông không hổ thẹn ư?". "Thưa cụ, nếu cháu so sánh nhà văn với
chó, thì chó nó thẹn, chớ sao nhà văn lại thẹn?". Ông Tản Đà làm thinh nốc
hết ly rượu, rồi rót luôn một ly nữa. Mặt ông vẫn chưa đỏ. Bỗng dưng ông phì cười,
tiếng cười nổ lên đột ngột và kêu to, làm tôi giật mình. Xong, ông nói, không
ngó tôi: "Ông làm tôi bượch cười!" (ông Tản Đà hay nói bượch cười).
Rồi ông rưng rưng nước mắt... Tự nhiên tôi cũng muốn khóc như ông. Mặt Tản Đà
đỏ như quả gấc!Trương Tửu kể về "Bữa rượu tam đỉnh" độc đáo của Tản
Đà như sau: "Chúng tôi uống rượu ở trên căn gác nhà số 417 tại Bạch Mai,
chỗ cụ Tản Đà mở phòng xem số Hà Lạc và dạy Hán văn. Thi sĩ rót rượu mời chúng
tôi: "Thứ rượu này có ngâm đan sâm và đương quy, uống đậm giọng mà không
hại cho sức khỏe. Hai ông cứ uống thật say, không nhức đầu chóng mặt gì đâu mà
ngại". Chúng tôi chưa kịp đáp lời, cụ đã lại nói tiếp: "Để hôm nay
tôi xào nấu các thức ăn, hai ông xem. Tôi làm bếp lại có phần giỏi hơn làm
văn... (cười và quay lại gọi gia nhân) Này anh Nhỏ, anh đặt cái hỏa lò
nhỏ lên bàn này tôi... Được rồi! Anh đặt luôn cái soong chả dê này lên cái hỏa
lò nhỡ kia, thêm tí mỡ vào... Được rồi! Bây giờ anh nhóm lửa cái hỏa lò to kia
lên để nấu canh, húp cho giã rượu... Kìa, hai ông xơi rượu tự nhiên đi... Đấy
ăn trên lửa có phải ngon không? (cười to). Một bữa rượu, ba cái hỏa lò!
Sang thật! Ngày xưa vua chúa dùng ngũ đỉnh, hôm nay ta dùng tam đỉnh chứ thua
gì !"... Đáp lại thịnh tình của chủ nhân, bạn tôi, ông Nguyễn Đình Lạp,
nghiêng mình thưa: "Chúng tôi được hầu rượu cụ hôm nay, thật lấy làm hân
hạnh và vui vẻ lắm". Tôi tiếp lời bạn, thân mật hơn: "Chúng tôi không
ngờ một nhà thơ tài hoa của núi Tản sông Đà lại nấu nướng thức ăn có nghệ thuật
đến thế" (Trương Tửu - Uống rượu với Tản Đà).Năm 1938, Tản Đà 50
tuổi còn nhà thơ Trần Huyền Trân mới 25 tuổi. Vậy mà giữa họ đã có một tình bạn
vong niên, cái chất xúc tác cho tình bạn hiếm có ấy chính là... men rượu. Bài
thơ Mộng uống rượu với Tản Đà của Trần Huyền Trân đăng trên
Tiểu Thuyết Thứ Bảy (1938) là một sự đồng cảm sâu sắc của một nhà thơ mới với
một nhà thơ cũ, sinh bất phùng thời: "Cụ hâm rượu nữa đi thôi/Be này đã
cạn hết rồi còn đâu!Rồi lên ta uống với nhau/Rót đau lòng ấy vào đau lòng này/
Say đâu? Lòng chửa được đầy/Cái đau nhân thế thì say nỗi gì?/Đường xa ư cụ?
Quản chi!/Đi gần hạnh phúc là đi xa đường... Rót đi, rót... rót đi thôi/ Rót
cho tôi cả năm mươi tuổi đầu/Nguồn đau cứ rót cho nhau/Lời say sưa mới là câu
chân tình".Vũ Bằng - tác giả Món ngon Hà Nội tâm sự:"Người như Tản Đà
để ở xa mà kính trọng, cảm phục thì được, chứ ở gần thì không thể nào chịu
nỗi!...Bất cứ ở đâu ông cũng coi như chỗ không người, ăn uống bừa bãi, nói lè
nhè ầm ĩ, có khi đương yên lành chẳng làm sao bỗng đổi ra giọng gay gắt với
người đối thoại, tuồng như ông chính là đấng trích tiên thật, thiên hạ ai cũng
sợ ông..." (Vũ Bằng - Tản Đà uống rượu làm cho tôi say đến bây
giờ, NXB Văn học, 1970).
Phan Khôi - người
"vinh hạnh" được "quan tòa" Tản Đà lên án, đòi đem ra
Văn Miếu đánh đòn , cũng đã nhận xét như sau: "Cái lối đánh
chén của ông Hiếu kề cà mất thì giờ lắm, tôi chịu không được nên ít khi tôi
ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hỏa lò để ở bàn mà tự làm lấy món ăn. Có
khi mãn một tiệc ăn, người nhà phải thay than trong hỏa lò đến năm sáu bận.
Thường thường một mình ông vừa ăn uống lại vừa viết nữa. Ông cho có thế mới là
thú (Tôi với Tản Đà thi sĩ, Tao Đàn số 9-10, năm 1939).
Chính Tản Đà cũng thường tự coi
mình là "Khổng tử chi đồ", "trích tiên", một thế ngoại cao
nhân, tỏ ra khác biệt với người dương thế. Ngô Tất Tố là bạn thân của Tản
Đà (nhưng đã tuyệt giao với ông trong suốt 10 năm cuối đời) có lần phác họa về
con người ông: "Không có tiền thì rầu rĩ, oán trách, rũ người ra như con
cú, thế mà một khi có tiền thì lại không muốn làm việc gì hết, chỉ uống và ăn,
hết ăn lại uống. Chưa uống thì bảo không có rượu như cái máy không xăng nhớt
không chạy được, uống vào say rồi thì nằm khoèo ra ngủ và lý luận một mình rằng
say mà làm việc thì hỏi đời còn có cái gì thú nữa?".
2. Nguyễn Tuân (1910 - 1987):
Nguyễn Tuân được coi là người sành ăn. Nhà văn Tô Hoài nói: ông
Tuân rất mê lối sống ngông của ông Tản Đà. Mà Tản Đà là một ông ăn uống chúa
cầu kỳ. Nguyễn Tuân học theo, dần dần lại nổi tiếng hơn cả thầy, có khi còn
mang vạ.
Một dạo ông viết bài ca ngợi phở, giò chả. Lúc ấy xã hội đang thiếu gạo, ăn phở là vi phạm chính sách lương thực. Thịt càng hiếm, giò chả là thứ xa xỉ, nhiều người dân như đã quên hẳn mùi vị các món ấy. Nguyễn Tuân bị phê phán lên bờ xuống ruộng. Đến nỗi bà bán rong giò chả gần nhà ông phải ái ngại cho ông: " Chúng nó ăn ngập răng thì không ai nói, ông thì ăn bao nhiêu, tôi bán cho ông tôi biết chứ. Khốn khổ, phở giấy, giò giấy mà hành người ta."
Một dạo ông viết bài ca ngợi phở, giò chả. Lúc ấy xã hội đang thiếu gạo, ăn phở là vi phạm chính sách lương thực. Thịt càng hiếm, giò chả là thứ xa xỉ, nhiều người dân như đã quên hẳn mùi vị các món ấy. Nguyễn Tuân bị phê phán lên bờ xuống ruộng. Đến nỗi bà bán rong giò chả gần nhà ông phải ái ngại cho ông: " Chúng nó ăn ngập răng thì không ai nói, ông thì ăn bao nhiêu, tôi bán cho ông tôi biết chứ. Khốn khổ, phở giấy, giò giấy mà hành người ta."
Ăn, đối với Nguyễn Tuân là một nghệ thuật,
và cách ăn của ông khá cầu kỳ. Uống cũng vậy. Nguyễn Tuân thường xuyên uống
rượu, coi đó như một nhu cầu không thể thiếu. Có khi uống nhiều, say tuý luý,
nhưng thường là chỉ nhấm nháp một ly, bằng thứ rượu ngon, chọn lựa rất kỹ của
mình. Đi đâu, ông thường mang theo, ủ ấm trong người chai rượu dẹt, thỉnh
thoảng đứng trước cảnh trời nước gợi hứng, lấy ra rót một ly nhỏ khề khà. Những
khi có được chai rượu ngon (Cognac
của Pháp chẳng hạn, có thể do Thủ tướng PVĐ, hay một vị nào đó quý ông và được
ông quý, biếu), ông mời bốn người bạn rất quý của mình đến uống. Đồ
nhắm là đĩa mắm thu nhỏ, bốn cây tăm xỉa mắm và nâng cốc hạ ly, để nói về những
chuyện tâm đắc của mình.
Trong "Vang bóng một
thời", nhiều lần Nguyễn Tuân kể về thú nhấm nháp sang trọng của người xưa (Truyện
Hương cuội: Chiều ba mươi tết, cụ cử, cụ tú, cụ kép cùng thưởng tiệc rượu
Thạch lan hương, người bõ già kính cẩn chắp tay đứng sau lưng chủ, có vẻ cũng
thèm say lắm. Rồi mỗi một chén ngừng là một lời thơ trong trẻo cất
lên, cứ thế cho tàn hết một buổi chiều). Người kể Hương Cuội cũng là người
hay rượu . Vũ Bằng kể rằng Nguyễn Tuân có khi "ngưu ẩm", cũng có
khi khệnh khạng một mình, một chiều bên hồ Tây với một ly Mai quế lộ.
Gần đây, có vài tờ báo
Việt ngữ tại hải ngoại đăng lại một bài hát nói "Say", bảo của Nguyễn
Tuân làm từ năm 1931, cách đây gần 80 năm. Điều đó khiến nhiều người ngạc
nhiên, thú vị, không hiểu có đúng là của Nguyễn Tuân không, vì xưa
nay không ai thấy thơ ông đăng báo. Xin dẫn ra đây 4 câu mưỡu đầu:
Hạnh hoa thôn đã đây rồi,
Chơi đi cho thỏa một đời thông minh,
Nợ men gấp mấy nợ tình,
Cõi trần ướm hỏi Lưu Linh mấy chàng?
Trong bút ký "Một ngày theo Nguyễn
Tuân đi chơi Huế", Nguyễn Quang Hà kể:
"Trong đò của ngư dân trên phá
Tam Giang, đò nào cũng có bếp, có lò than để chiều khách ăn đặc sản của phá.
Hôm nay Nguyễn Tuân không ăn trên đò, ông bảo đem lò than và tôm lên ngồi bên
giếng Cam Lồ ngay dưới chân núi Túy Vân để nhấm nháp. Ông tự nướng
lấy tôm. Đôi đũa ông gắp tôm lật đi lật vê. Ông chìa một con tôm vừa gắp trong
lò ra, đưa đến trước mặt tôi, ông bảo:
- Em ạ, nướng tôm còn một chút lòng đào
như thế này, ăn mới biết thế nào là vị tôm ngọt. Tôm phá Tam Giang, tôm rằn
nước lợ ở đây ngon nhất nước đó, em à.
Vừa nướng tôm, ông vừa lấy ra từ túi áo
ngực trái một chai rượu chỉ to bằng bốn ngón tay và cũng lép như bàn tay, ông
chạm chai vào vai trần của tôi:
- Em có thấy chai rượu ấm lên không? Hơi
nóng của trái tim ủ nó nóng lên đấy. Uống rượu nóng thế này mới bốc và mới biết
thế nào là hương thơm của rượu Ông lấy trong túi áo kia một chiếc chén nhỏ bằng
hạt mít. Ông chắt rượu ra đó, mỗi chén rượu, ông lại nhắm một con tôm lòng đào.
Ông đưa cho tôi một chén rượu:
- Nào em, hãy nếm một chút hương vị thanh
tao của cuộc đời này đi!
Quả nhiên uống rượu nóng
thấm thía một cách kỳ lạ. Tôi chợt nhớ câu thơ của Nguyễn Bính: "Em rót cho
anh nước rượu đầu. Hai đứa uống chung và lại thẹn. Nghẹn ngào hai đứa uống
chung nhau".
3. Văn Cao (1923 - 1995):
Có một nhà thơ - nhạc sĩ cũng thường xuyên
làm bạn với rượu, đó là Văn Cao. Thật ra, ông ít khi uống, mà nhiều hơn, ông
chỉ "ngồi thiền" trước chén rượu. Người ta nói những người uống rượu
như thế là những người "mượn rượu", mượn chuyện uống rượu, mượn cái
không khí rượu để ngẫm nghĩ một điều gì đó, chuyện trò tương tác với bạn bè anh
em, hay cô đơn du hành trong tâm trí tới những vùng xa lạ nào của tâm tưởng.
Đúng là rượu gắn bó với phần lớn cuộc đời
Văn Cao, nhất là trong khoảng 40 năm cuối đời ông. Nhưng vì ông uống rượu theo
kiểu riêng như vậy, nên lượng cồn chảy vào người không nhiều. Có những buổi Văn
Cao chỉ ngồi trước độc nhất một chén rượu, như thế thì rượu trong chén cũng đã
nhạt hơi và theo lời khuyên của các thầy thuốc bây giờ, đó chỉ là cách uống
rượu dưỡng sinh. Nhưng kỳ lạ là khi Văn Cao uống rượu theo kiểu của ông với đám
đàn em, thì cách rượu của ông không hề ngăn trở hay làm mất hứng bất cứ ai
trong bàn rượu, dù đó là những anh chàng đang độ hảo hán coi vài ba chai sáu
lăm như đồ bỏ, coi vài chục vại bia hơi như trò súc miệng. Cái nét đẹp ấy, bây
giờ người ta hay gọi là "văn hoá" trong chiếu rượu của Văn Cao, là ông
biết chờ bạn rượu, biết lắng nghe người khác nói, dù đó là những đứa em út, và
khi tới lượt mình, thì biết nói những điều tâm huyết, biết kể chuyện đời một
cách nhẹ nhàng, và tuyệt đối không khoe khoang. Nghe Văn Cao bên chén rượu nói
chuyện hay kể chuyện rất thích, vì ta có cảm giác một không gian thân mật ấm
cúng bao phủ cả chiếu rượu, len lách vào từng người uống rượu, và ngay khi nghe
Văn Cao kể chuyện, thì những chuyện buồn, những chuyện đau đớn của ông vẫn lâng
lâng. Người như thế không biết oán thù, không sâu hận, nhưng bao giờ cũng biết
nhớ, nhớ một cách rõ ràng, chính xác từng chuyện một đã xảy ra với mình trong
đời.
4. Vũ Hoàng Chương (1916 - 1976):
Vũ Hoàng Chương sống ở Sài Gòn, từng được
vinh danh thi bá ở Miền Nam.
Thơ ông sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông
phương.
Nhiều người nói, nhà thơ Vũ Hoàng Chương
là "con sâu rượu", một thi sĩ nghiện ngập. Chúng ta luôn nhớ hai câu
thơ này của ông:
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Ðời vắng em rồi say với ai!
Vũ Hoàng Chương được mệnh danh là
"nhà thơ say". Không phải là cái say "không còn biết chi
đời" như ông đã nói, mà chỉ là "gác mọi chuyện qua một bên để bay
lên". Đọc "Thơ say", ta thấy men càng nồng. thơ càng bay. Vũ
Hoàng Chương vẫn thèm khát "được say" đến cùng tận:
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta!
Cổ chưa khô, đầu chưa nặng, mắt chưa hoa
Tay mềm mại, bước còn chưa chếnh choáng
Chưa cuối xứ mê ly, chưa cùng trời phóng đãng
Còn chưa say hồn khát vẫn thèm men.
Nhờ hơi men mà ông làm
được những bài thơ hay như thế!
(*3,4 : Kể theo Thanh Hải - Uống
rượu với nghệ sĩ )
5.
Bùi Giáng (1926 - 1998):
Bùi Giáng là một nhà thơ có kiến thức
uyên bác, giỏi ba ngoại ngữ: Pháp, Anh, Đức, đã cho xuất bản trên 60 cuốn sách (14 tập thơ, 19 dịch phẩm, 6 sách giáo khoa
và nhiều tập biên khảo triết học và thơ) và hiện còn 10 tập thơ và nhiều
bản dịch chưa được công bố. Ông nổi tiếng trên văn đàn với lối thơ "xiêu
đình đổ quán" mà ông có thể "nhẩm bút" cả chục bài liền trong
quán rượu hay quán cà phê. Tên ông đã trở thành một huyền thoại văn chương. Ông
xưng danh là Trung Niên Thi Sĩ, cùng hàng loạt biệt danh trào lộng khác. Suốt
hơn bốn thập kỉ sống cuộc đời giang hồ, chân đất túi vải rong chơi mọi nẻo phố
đường, nghêu ngao ca hát, làm thơ, vẽ tranh, ứng xử giữa (với) đời như một thiên tài và một kẻ khùng điên, thật khó mà phân
biệt.
Đi đâu cũng vậy, bên mình Bùi thi sĩ cũng
có một bầu rượu, một cái túi cói đựng đầy thơ và một cây bút để chép thơ khi có
hứng. Ngày nào cũng đi, cứ 200 mét thì dừng lại uống mấy ngụm "rượu
suông" rồi mới đi tiếp. Bùi Giáng "say" là để "tỉnh",
say nhưng vẫn "đi làm" bình thường: Làm chim bay cò bay, làm cảnh sát
giao thông ngoài phố.
Anh Nguyễn Thanh Hoài -
người cháu từng sống gần gũi nhất với thi sĩ Bùi Giáng trong những năm tháng
cuối đời ông tại căn nhà nằm trong một đường hẻm thuộc Q.Bình Thạnh, TP.HCM đã
kể: "Sáng sớm, ông đơn độc ra đường, hễ uống xong ly cà phê là ông chuyển
qua uống rượu và rong chơi khắp Sài Gòn bất kể mưa nắng. Ông đi bộ là chính,
nhiều khi đi suốt ngày - nếu có về nhà cũng chỉ nghỉ chân một lát, sau đó lại
tiếp tục ra khỏi nhà, là đà lãng đãng trên đường trong cơn nửa say nửa tỉnh.
Khi nào về nhà, ông thường mang quà phân phát cho mấy cháu nhỏ trong nhà, cất
những bài thơ đã làm, ăn qua loa vài miếng cơm, rồi... đi nữa! Nếp sinh hoạt đó
cứ đều đặn lặp đi lặp lại cho đến khuya ông mới chịu dừng bước. Thông thường
trước khi đi nghỉ, dầu nhâm nhi rượu trắng suốt ngày ông vẫn ngồi thiền khoảng
một tiếng mới ngả lưng xuống giường. Còn như những lúc quá say thì "bạ đâu
ông nằm đó", những lúc ấy gia đình phải ẵm ông vào phòng mới được."
6.
Nguyên Hồng (1918 - 1982):
Nguyên Hồng là người xuề xoà, ưa
nhường nhịn người khác. Nhìn ông râu tóc lởm chởm, quần áo nâu nhàu nhĩ,
ôm cái cặp căng phồng sờn trơ cả cốt, rảo bước trên hè phố, ai cũng tưởng đó là
một lão nông về phố, một con người cũ kỹ của thời quá vãng xa xôi. Được gần
ông, nghe ông nói, mới biết đó là nhà văn Nguyên Hồng nổi tiếng, với
tâm hồn ông rộng mở, tươi mới lạ thường. Văn ông là kiếp người lầm than, thơ
ông là giang sơn cẩm tú, anh hùng hào kiệt. Nhưng ông Nguyên Hồng đó thường
xuyên uống rượu một mình ở nhà riêng, trên đường đi, hay nơi phòng làm việc .
Rượu thường là loại xoàng, lơ lớ, nhàn nhạt, có thể mua ở bất kỳ quán nào. Mồi
nhậu có thể là cái bánh mỳ khô, cơm nguội, hoặc sang hơn là thịt chó.
Có lần ông nói về tác dụng
của rượu: "Có nhiều người rượu vào tính khí rất khác thường, vừa la ó, cáu
máu, nổi nóng, đánh nhau, xấu tính, còn rượu của nhà văn thì phải khác, rượu
của nhà văn thì phải có tiếng chim, có thiên thai, có nhiều nhân vật, có cái
không gặp, không biết nhưng khi viết ra thì rất thật. Mình có gặp Năm Sài Gòn
hồi nào đâu mà Năm Sài Gòn trong "Bỉ Vỏ" "vẫn sống".
7. Tô Hoài (1920...)
Bây giờ Tô Hoài đã ở tuổi
90, vẫn viết trên chiếc bàn cũ, vẫn sống đạm bạc ở phố Đoàn Nhữ Hài trong căn
nhà mua bằng nhuận bút truyện "Vợ chồng A Phủ". Ông từng đi vài chục
nước, xuất bản gần hai trăm đầu sách, nếm trải đủ mùi vị trong nghề.
Từ lúc qua tuổi 80,Tô Hoài
đi đứng có hơi chậm, nhưng rượu vẫn đều đều, tửu lượng vẫn cao. Mỗi khi có
"lộc" lại chiêu đãi bạn bè. Anh em trong giới cần, bác chi viện một
cách vô tư "không hoàn lại". Nhiều lần đi lấy nhuận bút
xong, Tô Hoài hay tìm đến ngôi nhà ở phố
Nguyễn Thượng Hiền, đưa bạn ông, Nguyễn Văn Bổng đi uống bia. Khi ấy
ông Bổng mắt đã kém, cứ đặt tay lên vai bạn, lẫm chẫm đi bộ ra quán uống, trò
chuyện, rồi Tô Hoài lại đưa bạn về. Tật bệnh mà
được thủ thỉ thế thì đến chết cũng không quên được. Ông chẳng giàu
đâu, vừa qua một cuộc nhập viện 2008 "thập tử nhất sinh" phải cấp cứu
ở Bệnh viện Việt Pháp, tốn đến hàng triệu đồng một ngày.
Trong bữa rượu, ông có thể
uống ba thứ: bia, rượu vang rồi rượu nặng. Rất nhiều người trong bữa rượu chỉ
uống được một thứ, uống hai ba thứ khác nhau rất dễ chết. Với ông, hai ba loại
cũng vậy thôi, không thành vấn đề! Ông không uống nhâm nhi, uống theo kiểu Nga.
Tô Hoài vào quán lặng lẽ kín đáo, gọi một vài chén vại, mỗi chén làm một hơi là
ra đi. Rượu đế, rượu whisky, ông ực một cái, cạn ly, rồi chữa cháy bằng
nước lọc. Càng uống càng tỉnh, vậy mới lạ, không bao giờ có chuyện "rượu
vào lời ra". Không bao giờ ồn ào. Càng uống giọng càng nhỏ nhẹ, càng tinh
tế với nụ cười duyên dáng.
Cụ thường lên Tây Bắc, lăn
lộn với người Mông trên các đỉnh núi cao, cụ ăn mèn mén, uống rượu mèn. Vào Sài
Gòn, được bạn cho uống rượu chuối hột vừa thơm vừa ngọt của Miền Tây, uống một
lần, Tô Hoài rất thích, gặp bạn khoe: "Rượu chuối hột, hôm qua mình thấy
mình cường tráng như thằng con trai!"
Với vốn sống ấy, Tô Hoài
có lần kể truyền thuyết về người đàn bà: Thời khai thiên lập địa,
trần gian chỉ có đàn ông không có đàn bà, họ sống rất cô đơn - Họ cầu Chúa,
Chúa dạy rút lại một cái be sườn của mình ra, thổi nó, chiếc be sườn biến thành
đàn bà - Như vậy người đàn bà là một phần thân thể của người đàn ông.
Người Mông thì khác, ban
đầu cũng chỉ có đàn ông, cô đơn quá. Một đêm người đàn ông nằm mơ thấy một
người khác giới, người đàn bà - người đàn bà của giấc mơ biến thành người đàn
bà cho đàn ông - Người đàn bà là người của giấc mơ mà thôi.
(*5,6: Nhiều chỗ kể theo
Nguyễn Quang Sáng - Rượu với các nhà văn)
8.
Hoàng Trung Thông (1925 - 1993):
Hoàng Trung Thông triền miên những cơn
say. Không biết ông kết thân với rượu từ bao giờ. Ông đã dùng rượu như nhu cầu
thường nhật. Rượu cũng làm cho hình ảnh của ông trở nên bé nhỏ, dị mọ đi trong
con mắt của người đời, những ai không hiểu ông, không hiểu nhân tình thế thái
trong cuộc đời. Có thể ông nhận biết được điều đó, ông nhận ra những gì mà rượu
mang lại cho mình, nhưng đã trót say nhau rồi, ông không bỏ được, để rồi ông
lại say nhiều hơn.
Bà vợ biết ông hay rượu, trong nhà bà bao
giờ cũng chăm chút ngâm trữ nhiều loại rượu ngon để chiều chồng và đãi bạn của
chồng. Kèm với rượu ngon là những thứ đồ giã rượu phòng khi chồng say. Khổ nỗi,
Hoàng Trung Thông lại không thèm rượu ở nhà. Ông thèm đến nơi đông vui,
đến nơi có bạn hữu thì thứ men say kia mới đủ sức quyến rũ làm cho ông thăng
hoa. Ngót những năm dài, rượu đã trở thành gánh nặng cho vợ con ông, và trước
tiên là bản thân ông. Nhiều khi ông không còn giữ được phong độ của mình, làm
cho căn bệnh huyết áp của ông thêm trầm trọng.
Khi còn đang là Viện trưởng Viện Văn học,
ông hay uống rượu ở 91 Bà Triệu. Bạn bè và nhân viên cũ của ông kể lại: Mỗi
buổi sáng, ông thường đi sớm tạt qua 91 Bà Triệu uống rượu và trò chuyện với bè
bạn trước khi đến cơ quan. Buổi chiều đã thấy ông ở đó.
Hoàng Trung Thông có thói quen uống
rượu từ từ chậm rãi, dường như mượn rượu để trò chuyện nhiều hơn là uống rượu.
Một ly rượu có thể kéo dài cả giờ đồng hồ, nếu gặp bạn chuyện. Ngày mới nghỉ
hưu, ông thường đến cơ quan cũ. Những bạn bè yêu quý ông thường hay mời thủ
trưởng cũ ra quán cóc đãi rượu. Có rượu vào, ông nói chuyện rất hay. Chuyện
đông tây kim cổ, các tri thức uyên bác, bao nhiêu hiểu biết về tinh hoa văn
hóa Trung Quốc, thơ Đường v.v... ông đều đem hết vào những tiệc rượu.
Với những người vốn kiến văn không đủ để mê ông nói chuyện thường tìm cớ cáo
lui ra về. Chỉ vài ba người hiểu ông, mê tri thức uyên bác của ông mới ở lại
cùng ông cho đến phút cuối. Khi môi đã mềm, bàn chân đã bước đi không vững nữa
ông mới chịu để anh em dìu về nhà.
(
Kể theo Như Bình)
9.
Nguyễn Quang Sáng (1932...)
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng không còn sống
trong căn nhà nhỏ trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa nữa. Gia đình ông dời về quận 7 (TP HCM) ở trong căn nhà đẹp, trồng cây
sa kê thật lớn, có chiếc bàn trà ngoài hiên. Ông ngồi đó, uống trà Thái Nguyên,
nhìn mưa rơi, mái tóc bạc trắng như ký ức. Vẫn tung tẩy nhậu...
Về quận 7, nhà ông phải đi qua sông, khu
ấy xưa gọi ngoại thành, nay lại thuộc vùng "đất nóng" của đầu tư
trong thành phố. Xưa ông mua miếng đất chỉ có căn nhà nát, cậu con trai cả là
kiến trúc sư thiết kế, rồi xây thành căn biệt thự ba tầng lầu. Cậu con trai thứ
hai mua xe hơi chạy đi làm, có cả gara rộng.
Cuộc sống của ông đã vào lúc thái bình.
Không còn vất vả như trước nữa. Về quận 7, xa trung tâm, gọi điện
cho ông lúc nào cũng thấy ông ái ngại, đi xa lắm đó, có tới được không? Nhưng
ông thì ngày nào cũng có lịch nhậu. Ông có một người bạn, ở cùng quận 7, làm
quan chức ngân hàng, nên mỗi lần có lịch nhậu ông thường nói bạn chở xe hơi đi.
Còn không, ông gọi taxi tới. Ở tuổi của
ông, nhậu như một thói quen bè bạn chứ không phải là để sát phạt, tạc thù. Nó
như là một nhu cầu trong cơ thể, được gặp và trò chuyện, vậy thôi. Ông đi lại
cũng không còn nhanh nhẹn như xưa.
Thế nên, cứ lên xe, kêu tài xế chạy tới
địa chỉ, nhậu xong lại gọi taxi về, mất trăm ngàn nhưng mà nhàn thân, khỏi lo
lắng mệt nhọc. Nhậu trong thành phố ông chỉ tới vài nơi quen.
Như quán 6A Trần Cao Vân chẳng hạn, ông
thuộc từng mặt khách quen ở đó. Ông nói, quán đó không sang cũng chẳng hèn,
không xô bồ mà cũng không quá nghiêm túc. Nó vừa vặn với ông. Vừa lai rai uống
bia vừa coi đá banh, thấy cuộc sống nhẹ nhàng lắm.
Nhưng nhậu như Nguyễn Quang Sáng lại là
nhậu ra công ra việc. Bạn bè ông, có những người là bạn đọc lâu năm thành bạn,
đều là những người thành đạt. Trên bàn nhậu, biết bao công việc được nói, biết
bao chuyện được kể, và từ đó nó hình thành nên những kế hoạch và công việc tiếp
sau.
Nguyễn Quang Sáng uống rượu không bao giờ
say. Chưa ai thấy ông trong tình trạng say bất tỉnh. Ông luôn biết được điểm
dừng của mình. Và trước khi say mềm, ông luôn biết nói lời chào tạm biệt để tìm
đường về nhà.
Có lẽ cuộc sống vất vả với người vợ bị đau
ốm nhiều năm và ba đứa con nhỏ đã tập cho ông một thói quen như thế. Có lẽ
chính vì điều ấy, mà dù ông có đi đâu và làm gì, gia đình ông vẫn giữ được sự
ấm áp...
(Theo
Nguyễn Khang)
10.
Trịnh Công Sơn (1939 - 2001):
Trong giới văn nghệ sĩ VN, ai cũng biết
Trịnh Công Sơn là một "tửu đồ" có thể sánh vai với nhà thơ rượu nổi
tiếng Lý Bạch. Ông còn nổi tiếng về cái tài uống rượu "chay", tức là
chỉ ngồi uống tì tì mà không cần ăn gì, không cần "phá mồi" (từ ngữ dân
nhậu thường dùng để chỉ những kẻ uống thì ít mà... ăn thì nhiều). Giống như là
thi sĩ Lý Bạch thường chỉ làm thơ trong những lúc túy lúy càn khôn, một phần
không nhỏ tác phẩm Trịnh Công Sơn cũng được sáng tác ra trong những cơn say và
một số bạn bè ông đã cho rằng trong một lúc say sưa nào đó thì Trịnh Công Sơn
chứ không phải ai khác, mới là người hát nhạc Trịnh Công Sơn hay nhất. Sau này,
thoát chết trong cơn bạo bệnh lần thứ nhất trở về, Trịnh Công Sơn đã từ bỏ rượu
và đã thú nhận rằng ông đã gặp khó khăn trong sự sáng tác thời gian đầu khi bỏ
rượu.
Trả lời trong một cuộc phỏng vấn, Trịnh
Công Sơn đã nói: "Trước đây, rượu là kẻ đồng hành với tôi trong cuộc sống.
Không thể thiếu rượu được. Nó là chất xúc tác tốt để tôi làm việc. Uống để vui
đời, chứ không uống để say. Uống thì ngòi bút trơn tru hơn, cọ vẽ bay bổng hơn
và trí tưởng tượng được dịp trôi nổi về những bờ cõi ngẫu hứng lạ lẫm
hơn.
Giờ đây, tôi đang tạm thời xa rượu vì sức
khỏe, tạm khất lại một thói quen đã cùng mình như hình với bóng trên những đoạn
đường dài của sáng tạo. Tôi hy vọng là mọi việc cũng sẽ ổn thỏa thôi". Ta
có thể thấy "rượu" bàng bạc trong từng lời nhạc của Trịnh Công Sơn.
"Còn thấy gì sáng mai đây thôi ta còn bạn bè. Giọt rượu nào mãi chua cay
trong tình vẫn u mê..." (Tình Xa),
"Có ai đang về giữa đêm khuya, rượu tàn phai bước chân đi ơ hờ..." (Nghe những tàn phai), "Chén rượu
cay, một đời tôi uống hoài, trả lại từng tin vui, cho nhân gian chờ
đợi..." (Phôi pha), "Hôm nay ta say, ôm đời ngủ muộn, để sớm mai đây,
lại tiếc xuân thì..." (Một cõi đi
về), "Tiếng thì thầm từng đêm nhớ lại, ngỡ chỉ là cơn say..." (Như một lời chia tay). Có một chuyện ít
ai biết là Trịnh Công Sơn nổi tiếng về uống rượu không chỉ trong nước mà còn ở
cả nước ngoài nữa. Bằng chứng là hãng rượu nổi tiếng Martell đã mời Trịnh Công
Sơn đến Pháp (họ chỉ mời những người nổi tiếng thôi) để nếm thử loại rượu quí
được chưng cất và để dành lâu đến 65 năm (cả
một đời người).
Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài ký
"Người Uống Rượu" đã viết : Vâng, tất cả âm nhạc của Sơn là nỗi buồn,
và cái để chuyển tải nỗi buồn là ly rượu. Trong tiếng Hán Việt người ta thường
dùng từ "giả" cho một số nghề nghiệp như tác giả, soạn giả, diễn giả,
chứ ít ai dám phong "nhà" cho kẻ say giống như Lý Bạch. Nhà thơ vĩ đại
đời Đường này đã cho rằng: "Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch./ Duy hữu ẩm
giả lưu kỳ danh" Tạm dịch: Xưa nay các bậc thánh hiền đều yên lặng. Chỉ có
người uống rượu là để lại tên tuổi. Như vậy Trịnh Công Sơn là một "ẩm
giả" đích thực, như một nhà triết học hiện sinh chung tình với hiện hữu
(Sưu tầm)