Tác giả: Tchinguiz Aïtmatov
…
Mùa đông đã du mục sáng bên kia đèo. Mùa xuân đang lùa những đàn gia súc màu
xanh của nó đến. Trên những cánh đồng bằng, tuyết đã tan, mặt đất ướt như sưng
phù lên từng chỗ. Từ miền ấy, những luồng hơi ấm bốc lên lùa vào núi, mang theo
hơi thở mùa xuân của đất đai, hương vị của sữa đang lên hơi. Các cồn tuyết cũng
xẹp xuống, những tảng băng trên núi đã chuyển mình và các dòng suối đóng băng
cũng nứt nẻ, vỡ toác ra, rồi tràn lên, cuồn cuộn chảy thành những thác nước
dũng mãnh réo ầm ầm trong các thung lũng.
Có lẽ đó chính là
mùa xuân đầu tiên trong thời niên thiếu của tôi. Dù sao đối với tôi nó cũng vẫn
đẹp hơn tất cả các mùa xuân trước. Đứng ở trường chúng tôi, từ trên đỉnh đồi,
có thể nhìn thấy cả thế giới tươi đẹp của mùa xuân mở rộng ra trước mắt. Mặt đất
dường như dang tay chạy từ trên núi xuống và không đủ sức dừng lại nữa, cứ lao
vùn vụt vào các vùng xa tắp của cánh thảo nguyên đang lấp lánh như bạc dưới ánh
nắng, bao phủ trong một làn hơi huyền ảo. Ở một nơi nào xa tít tận góc biển
chân trời có những hồ nước băng tan xanh biếc, ở một nơi nào xa tít tận góc
biển chân trời có những bầy ngựa đang hí lên, trên nền trời xanh đàn sếu bay
qua cánh nâng những làn mây trắng. Đàn sếu bay từ đâu tới và gọi lòng người về
đâu mà cất tiếng kêu lanh lảnh buồn buồn như vậy?
Mùa xuân tới, gieo
vui vào lòng chúng tôi. Chúng tôi bày đủ trò chơi, luôn cất tiếng cười vô cớ,
cứ đến giờ tan học, suốt dọc đường về làng, chúng tôi vừa chạy vừa gọi nhau ầm
ĩ. Thím tôi rất ghét cái lối ấy và không bỏ lỡ dịp mắng mỏ tôi:
- Con đĩ, mày làm
gì mà cứ tớn tác lên thế? Mày làm bà cô thế mãi mà không biết dơ à? Con nhà có
phúc như người ta mà bằng tuổi mày cũng đã có chồng có con vui nhà vui cửa từ
lâu rồi, còn mày thì… Đằng này lại thích đi học cơ! Nhưng cứ đợi đấy…bà sẽ cai
quản mày…
Thật ra thì tôi
cũng chẳng để tâm đến những lời doạ nạt của thím ấy lắm, vì đó không phải
chuyện lạ – suốt đời thím ấy chỉ chửi mắng. Còn nói rằng tôi làm bà cô thì thật
không đúng chút nào. Có điều là mùa xuân năm nay tôi lớn như thổi. Thầy Đuysen nói đùa tôi:
- Em còn là một cô bé đầu bù tóc rối, mà hình như tóc em lại còn đỏ nữa kia chứ!
Những lời của thầy không làm tôi chạnh lòng chút nào cả. Tôi thầm nghĩ: “tất nhiên mình đầu bù tóc rối thật đấy, nhưng tóc mình chả đỏ tí nào đâu. Rồi đến lúc mình lớn hơn ít nữa, mình sẽ là một cô gái đến tuổi lấy chồng, mình chả đầu bù tóc rối thế này nữa đâu. Lúc đó thím cứ thử nhìn xem mình có xinh không”. Thầy Đuysen vẫn nói tôi có đôi mắt sáng như sao, có khuôn mặt cởi mở thật thà.
Có một lần, khi chạy ở trường về, tôi thấy hai con ngựa lạ đứng ngoài sân. Cứ trông yên ngựa, dây thắng, cũng biết chủ của chúng là những người ở trên núi xuống. Và trước đây cũng có khi họ đã ghé vào nhà chú tôi mỗi khi đi chợ về hay mang thóc xuống xay.
Đứng ngoài ngưỡng cửa tôi đã nhói lên vì tiếng cười thiếu tự nhiên của thím tôi:
- Gớm, thôi, đừng lo anh ạ, không nghèo đi đâu mà sợ. Rồi sau này khi con chim non đã cầm chắc trong tay rồi, anh sẽ thầm cảm ơn tôi cho mà xem, hì hì hì! – Đáp lại lời thím tôi có tiếng vâng dạ rối rít và những tiếng cười ha hả. Đến khi tôi bước vào cửa thì mọi người im bặt. Cạnh đống nỉ phủ chiếc khăn trải bàn có một người đàn ông to béo phục phịch, mặt đỏ, ngồi chềnh ềnh như khúc gỗ. Đầu hắn đội mũ lông chồn che kín cả cái trán nhễ nhại mồ hôi. Hắn đưa mắt liếc tôi rồi đằng hắng một cái và cụp mắt xuống.
Thím tôi nhoẻn miệng cười âu yếm, nói:
- Ồ, con đã về đấy à, vào đây con!
Chú tôi cũng ngồi cạnh đống nỉ với một người lạ mặt. Hai người vừa đánh bài, vừa nhắm rượu với bánh ô mạch. Cả hai đều ngà ngà say và mỗi khi họ quất bài xuống, đầu họ cứ lắc lư đến kì quặc.
Con mèo mướp bò lên chỗ khăn trải bàn, nhưng lão mặt đỏ dùng đốt ngón tay cốc mạnh vào đầu nó một cái, khiến nó kêu thét lên, rồi nhảy vọt sang một bên và chúi đầu vào xó nhà. Khổ thân con mèo, nó đau quá! Tôi muốn bỏ đi ngay, nhưng tôi không biết làm thế nào. May vừa lúc ấy thím tôi nói:
- Con ạ, thức ăn ở trong chảo ấy, con ăn đi kẻo nguội.
Tôi bước ra khỏi phòng, trong lòng rất khó chịu với thái độ của thím tôi vừa rồi. Và tôi bắt đầu thấy chột dạ. Tôi bất giác đề phòng.
Chừng hai giờ sau, hai người khách lên ngựa trở về núi. Lập tức thím tôi lại bắt đầu chửi mắng tôi như thường lệ và tôi thấy đỡ lo. Tôi nghĩ thầm: “té ra thím có vẻ ôn tồn như vậy chẳng qua vì say rượu thôi”.
Ít lâu sau có lần bà cụ Xaikan ghé qua nhà chú tôi. Lúc đó tôi ở ngoài sân, nghe thấy bà cụ nói:
- Lạy trời, mợ làm gì vậy! Mợ giết nó thôi.
Bà cụ Xaikan và thím tôi lấp cả lời nhau, tranh cãi kịch kiệt điều gì và lát sau cụ Xaikan bước ra khỏi nhà, vẻ rất tức giận. Bà cụ nhìn tôi bằng đôi mắt vừa giận dữ vừa thương xót và lặng lẽ ra về. Tôi bỗng thấy bứt rứt trong người. Tại sao cụ lại nhìn tôi như vậy, tôi đã làm gì đến nỗi cụ không hài lòng?
Ngày hôm sau đến trường tôi nhận thấy ngay thầy Đuysen vẻ mặt sa sầm, như đang có điều gì lo nghĩ, mặc dầu thầy cố giấu đi. Tôi còn nhận thấy có điều nữa là không hiểu tại sao thầy không hề nhìn về phía tôi. Sau buổi học, khi chúng tôi ào ào chạy ra khỏi trường như ong vỡ tổ, thầy Đuysen gọi giật tôi lại:
- Antưnai, đứng lại thầy bảo. – Thầy bước lại gần tôi, nhìn chằm chằm vào mắt rồi đặt tay lên vai tôi. – Em đừng về nhà nữa. Antưnai, em có hiểu thầy không?
Tôi lặng người đi vì kinh hãi. Bây giờ tôi mới hiểu thím tôi định làm gì tôi.
Thầy Đuysen nói:
- Thầy sẽ chịu trách nhiệm về em. Em ở tạm nhà bác Kartanbai với thầy. Và lúc nào cũng phải đi theo thầy.
Chắc hẳn lúc ấy tôi không còn chút máu mặt nào nữa. Thầy Đuysen lấy tay nâng cằm tôi lên, nhìn thẳng vào mắt tôi và mỉm cười như mọi khi:
- Antưnai, em đừng sợ! - Thầy vừa cười vừa nói. - Thầy còn ở bên em, thì em không phải sợ ai cả. Em cứ học đi, cứ đến trường như cũ và đừng nghĩ ngợi gì… Vì thầy vẫn biết là em nhát lắm. Và nhân đây thầy kể cho Antưnai nghe một câu chuyện mà thầy đã định kể từ lâu – thầy Đuysen lại phì cười, hẳn đang nhớ lại điều gì ngộ nghĩnh – Chắc em còn nhớ có lần cụ Kartanbai dậy thật sớm và biến đi mất ấy. Té ra cụ đi mời… cụ dẫn ai về nhà em có biết không? Dẫn bà lang Giainakôva về. Thầy hỏi: “Làm gì thế bác?”. Cụ trả lời là: “Ấy để cho bà ấy cúng bái một chút đi gọi hồn nó về, không thì con bé sợ quá hồn xiêu phách lạc đi đâu mất”. Thầy nói: “Mời bà ấy ra đi, không lại phải cúng cho bà ấy một con cừu mất thôi. Mà nào nhà mình có giàu có gì cho cam. Ngựa cũng chả có mà cúng, có mỗi con thì cúng bầy chó sói mất rồi…”. Còn em thì lúc đó đang ngủ say. Thế là thầy đuổi cổ được mụ thầy cúng ra khỏi nhà. Về sau cụ Kartanbai giận thầy suốt một tuần lễ, không thèm trò chuyện với thầy. Ông cụ nói: “Tôi già cả thế này mà anh còn chơi khăm tôi”. Nhưng ông cụ, bà cụ là những người phúc hậu, hiếm có những người tốt như thế. Thôi bây giờ ta về đi, Antưnai…
Dù tôi có cố gắng can đảm lên bao nhiêu cho thầy Đuysen khỏi bận tâm, những ý nghĩ lo sợ cũng vẫn không buông tha tôi. Vì bất thần lúc nào thím tôi cũng có thể đến cưỡng bức lôi tôi đi. Rồi ở nhà họ muốn làm gì thì làm, không ai ở trong làng cấm được họ cả. Suốt đêm tôi trằn trọc không ngủ được vì mải lo nghĩ tới tai hoạ sắp đến.
Tất nhiên thầy Đuysen hiểu rõ tâm trạng tôi. Cũng có thể vì muốn xua đuổi những ý nghĩ đen tối đó của tôi nên ngày hôm sau thầy mang về trường hai cây phong nhỏ. Sau buổi học, thầy cầm tay tôi dẫn sang một bên.
Thầy mỉm một nụ cười bí ẩn và bảo tôi:
- Antưnai, bây giờ thầy với em cùng làm chung một việc. Hai cây phong này thầy mang về cho em đấy. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em cũng sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt. Em có một tâm hồn đẹp và một đầu óc ham học. Thầy bao giờ cũng nghĩ rằng em sẽ trở thành người thông thái. Thầy tin như vậy, em ạ, số phận em nhất định sẽ như thế. Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này. Antưnai ạ, ta sẽ tự tay trồng lấy hai cây phong này. Và mong sao em sẽ tìm thấy hạnh phúc trong học tập, ngôi sao nhỏ trong sáng của thầy ạ…
Hai cây phong ấy còn non, vừa cao bằng người tôi, thân biêng biếc. Và khi hai chúng tôi đã trồng xuống khoảng đất cạnh trường, từ chân núi đưa lên một làn gió nhẹ, lần đầu tiên chạm vào những khóm lá bé lăn tăn như thổi một luồng sinh khí vào chúng. Mấy khóm lá run rẩy, hai cây phong bắt đầu lay động, đung đưa…
- Em trông, đẹp chưa kìa! – Đuysen cười, lùi lại ngắm. – Bây giờ ta hãy đào một đường dẫn nước ở ngọn suối đằng kia về. Rồi em sẽ thấy hai cây phong của chúng ta đẹp đến nhường nào! Chúng nó sẽ đứng trên ngọn đồi này, sát cánh nhau như hai anh em. Và mọi người sẽ luôn luôn nhìn thấy chúng và những người lành sẽ thấy lòng vui lên khi nhìn thấy chúng. Đến khi ấy cả cuộc sống cũng sẽ khác, Antưnai ạ. Tất cả những gì đẹp nhất đều hãy còn ở phía trước…
Ngay cả bây giờ tôi cũng không sao tìm được những lời lẽ có thể nói lên ít nhiều lòng cảm kích của tôi trước tâm hồn cao thượng của Đuysen. Còn khi ấy, tôi chỉ đứng yên nhìn thầy. Tôi nhìn Đuysen như thể lần đầu tiên tôi được thấy hết vẻ đẹp sáng ngời trên gương mặt thầy, tấm lòng trìu mến và trung hậu ánh lên trong đôi mắt thầy, dường như trước kia tôi chưa từng biết đôi bàn tay của thầy mạnh mẽ và khéo léo như thế nào trong lao động, nụ cười trong sáng của thầy có có sức sưởi ấm lòng người đến nhường nào. Và trong lòng tôi, như một đợt sóng nồng nàn, bỗng cuộn lên một tình cảm mới mẻ mà tôi chưa hề biết, từ một thế giới xa lạ nào lan tới. Và cả tâm hồn tôi như vươn mạnh đến Đuysen, để nói với người: “Thầy ơi, em cảm ơn thầy đã sinh ra với một tâm hồn đẹp đẽ như vậy…Em muốn ôm hôn thầy!” Nhưng tôi e ngại không dám nói lên những lời ấy. Đáng lẽ tôi nói ra mới phải.
Lúc ấy chúng tôi chỉ đứng yên dưới vòm trời trong sáng giữa vùng đồi xuân xanh mơn mởn, mỗi người theo đuổi một ước mơ riêng. Và giờ phút ấy tôi quên bẵng mối nguy cơ đang lơ lửng trên đời tôi. Thậm chí tôi cũng không hề nghĩ xem ngày mai đây cái gì đang chờ đợi tôi và cũng không nghĩ xem tại sao đã hai ngày nay thím tôi không đi tìm tôi. Có lẽ họ đã quên tôi chăng, hay họ đã đành chịu để mặc tôi. Nhưng thật ra Đuysen lại đang nghĩ đến điều đó.
- Em đừng buồn, Antưnai ạ, ta sẽ tìm ra lối thoát, – Đuysen nói khi chúng tôi trở về thôn, – Ngày kia thầy sẽ lên huyện. Thầy sẽ bàn việc của em với các đồng chí trên ấy. Có lẽ họ sẽ nghe thầy mà cho em lên tỉnh học. Em có muốn không?
- Thầy đã nói sao, em cũng xin vâng lời, – tôi đáp.
Tuy tôi không hình dung được trên tỉnh ra sao, nhưng những lời của Đuysen nói cũng đủ sức để tôi ước mơ cuộc sống ở thành thị. Có khi tôi thấy sợ hãi trước cảnh sống xa lạ nơi đất khách quê người, có khi tôi lại quyết tâm ra đi – nói tóm lại bấy giờ trong trí óc tôi không lúc nào không lởn vởn những tỉnh với thành.
Và hôm sau, trong khi ngồi học, tôi cũng chỉ nghĩ đến việc ấy: tôi sẽ sống ở tỉnh ra sao và biết ở nhà ai? Nếu có ai cho tôi ở nhờ, tôi sẽ bổ củi, xách nước, giặt giũ, họ sai gì tôi cũng làm. Tôi đang suy nghĩ liên miên như thế trong khi ngồi học thì bỗng giật mình thảng thốt khi chợt nghe tiếng vó ngựa dồn dập sau mấy bức vách ọp ẹp của ngôi trường chúng tôi. Những tiếng động ấy đột ngột quá và mấy con ngựa phi nhanh quá, đến nỗi tưởng như chúng sắp xéo bừa lên ngôi trường. Chúng tôi ai nấy đều nín thở, chờ đợi.
- Các em đừng để ý, cứ lo việc của các em đi, - Đuysen nói nhanh.
Nhưng lúc ấy cánh cửa bỗng mở toang nghe đánh sầm một tiếng và trên ngưỡng cửa thím tôi hiện ra, trên môi nở nụ cười hả hê nanh ác, đầy vẻ thách thức. Đuysen bước ra cửa.
- Bà đến có việc gì?
- Đến có việc chẳng dính dáng gì đến mày. Tao đem con tao đi gả chồng. Ê! Cái con cầu bơ cầu bất kia! – Thím chồm về phía tôi, nhưng Đuysen đã chặn lối.
- Ở đây toàn là nữ sinh cà, chưa có em nào gả chồng được! – Đuysen nói, giọng rắn rỏi và điềm tĩnh.
- Để rồi xem. Ê! Bọn đàn ông! Bắt lấy con chó chết ấy, lôi nó ra! Thím tôi giơ tay vẫy một tên trong bọn cưỡi ngựa. Đó chính là cái lão mặt đỏ đội mũ da cáo. Thêm hai tên nữa cầm những chiếc gậy nặng vót nhọn xuống ngựa theo sau lão ta.
- Đồ chó lộn nòi, sao mày lại dám tự tiện xem con gái nhà người ta như vợ mày thế hả? Thôi cút đi!
Nói đoạn tên mặt đỏ xông vào Đuysen như một con gấu.
- Các người không có quyền vào đây, đây là trường học! – Đuysen nói, hai tay nắm chặt lấy thành cửa.
- Tôi đã bảo mà! – Thím tôi rít lên – Hắn hú hí với con ấy đã lâu. Hắn rủ rê con chó đẻ ấy đến đây để hưởng không!
- Tao nhổ toẹt vào cái trưởng học của mày! – Lão mặt đỏ gầm lên, tay hoa chiếc roi da.
Nhưng Đuysen đã nhanh tay hơn hắn. Thầy giơ chân đạp mạnh vào bụng hắn. Hắn kêu lên một tiếng và ngã xuống. Ngay lúc ấy hai tên cầm gậy nhọn xông vào Đuysen. Lũ trẻ con kêu rú lên và chạy bổ về phía tôi. Cánh cửa bị xô mạnh vỡ ra từng mảnh. Tôi lao vào đám đánh nhau, lôi theo cả lũ trẻ đang bíu vào người tôi.
- Buông thầy giáo ra! Không được đánh! Tôi đây, bắt tôi đi chứ không được đánh thầy giáo!
Đuysen quay lại nhìn. Mình mẩy Đuysen máu me bê bết, vẻ căm giận trông rất khủng khiếp. Thầy cúi xuống đất lấy một tấm ván khoa lên, quát:
- Chạy đi các em, chạy về làng! Antưnai, chạy đi! – Tiếng kêu của Đuysen nghẹn ngào thành tiếng nấc.
Chúng nó đã đánh gãy tay Đuysen; thầy ép cánh tay vào ngực, bước lùi lại, còn bọn kia thấy thầy không còn sức chống cự, liền xông vào đánh thầy, rống lên như một đàn bò dại.
- Đánh! Đánh! Đập vỡ đầu nó ra! Đánh chết nó đi!
Thím tôi và lão mặt đỏ hầm hè xông vào tôi. Họ lấy bím tóc của tôi quấn quanh cổ tôi và lôi xềnh xệch ra sân. Tôi cố sức vùng dậy và thoáng một giây tôi trông thấy đám bọn trẻ đờ người ra gào thét và Đuysen đứng cạnh tường, mình đầy những vết máu đen thẫm.
- Thầy ơi!
Nhưng Đuysen không thể có cách gì cứu tôi được. Thầy hãy còn đứng được, nhưng loạng choạng như người say rượu dưới trận đòn của lũ ác ôn. Mái đầu Đuysen gục xuống ngực, thầy cố ngẩng lên trong khi bọn vô lại ra sức đánh thầy. Bọn chúng vật tôi xuống và trói tay tôi lại. Trong lúc đó Đuysen lăn lộn trên mặt đất.
- Thầy ơi!
Nhưng bọn chúng đã bịt mồm tôi lại và xốc tôi nằm vắt ngang trên yên ngựa.
Lão mặt đỏ đã lên ngựa, hai tay và ngực lão đè lên người tôi. Hai tên đang đánh Đuysen cũng lên yên. Thím tôi thì chạy bên cạnh và nện vào đầu tôi.
- Thấy chưa! Thấy chưa! Tao tống tiễn mày đi như thế đấy! Còn thằng thầy mày thì hết kiếp rồi…
Nhưng không, thầy tôi chưa hết kiếp. Từ phía sau bỗng vang lên một tiếng kêu tuyệt vọng:
- Antưna-a-ai!
Tôi chật vật ngẩng mái đầu đang buông thõng bên yên ngựa và nhìn lại, Đuysen đang chạy theo sau. Bị đánh gần chết, máu me bê bết, thầy cầm một hòn đá lớn đuổi theo. Và sau lưng thầy, cả lớp cũng vừa kêu khóc vừa chạy theo.
- Đứng lại! Đồ thú dữ! Đứng lại! Buông nó ra, buông ra! Antưnai! – Đuysen đuổi kịp quát lên.
Bọn hung đồ kìm ngựa, hai tên kia cho ngựa quay lại kèm hai bên Đuysen. Đuysen cắn lấy ống tay áo cho cánh tay khỏi vướng, nhắm đích và ném hòn đá, nhưng không trúng. Hai tên kia liền đâm hai nhát gậy nhọn vào Đuysen, khiến thầy ngã xuống một vũng nước. Mắt tôi hoa lên, tôi chỉ kịp nhận thấy lũ trẻ trường chúng tôi chạy lại chỗ thầy, vẻ sợ hãi.
Tôi không nhớ chúng đem tôi đến đâu và như thế nào. Tôi tỉnh dậy trong một căn lều vải. Những ngôi sao đầu hôm, trầm tĩnh, không chút ưu tư, dòm qua chóp lều để hở. Gần đâu đây một con sông chảy róc rách và nghe văng vẳng có tiếng nói chuyện của những người chăn cừu đêm. Bên bếp lửa đã tàn lụi có một bà già lầm lì, người khô đét như que củi đang ngồi yên. Mặt bà ta đen xạm như màu đất. Tôi ngoảnh đầu sang phía bên kia. Ôi, giá cái nhìn của tôi có thể giết chết được lão ấy!
- Mụ đen, đỡ nó dậy. – Lão mặt đỏ ra lệnh.
Người đàn bà đen đủi đến bên cạnh tôi và đưa bàn tay khẳng kheo lay vai tôi.
- Mụ bảo con bạn mụ cho nó biết điều, không nghe cũng không xong đâu: ta sẽ không nhiều lời với nó.
Hắn ra khỏi lều. Còn người đàn bà, mặt đen xạm thậm chí cũng chẳng buồn nhúc nhích và chẳng nói lấy nửa lời. Có lẽ bà ta câm chăng?… Đôi mắt đờ dẫn như màu tro lạnh của bà ta nhìn thẫn thờ, không biểu lộ một cảm xúc gì hết. Có những con chó bị đánh đập liên miên từ khi còn bé. Những con người độc ác luôn luôn bạ gì vớ nấy đánh vào đầu chúng và chúng cũng quen dần đi. Nhưng trong khoé nhìn của chúng có một vẻ gì âm thầm, trống trải đến nỗi trông mà ghê người. Tôi nhìn vào đôi mắt không hồn của người đàn bà mặt đen xạm và có cảm giác như chính tôi bây giờ cũng không còn sống nữa, tôi đang nằm dưới mộ. Tôi đã sẵn sàng tin như vậy, nếu không có tiếng nước róc rách từ ngoài sông đưa lại. Dòng nước cuồn cuồn vỗ vào các ghềnh đá – nước nó được tự do.
Thím ơi, tâm hồn thím sao mà đen tối đến thế, thím thật đáng muôn đời nguyền rủa! Hãy chết sặc trong nước mắt và máu của tôi!… Đêm hôm ấy mới mười lăm tuổi đầu, tôi đã không còn là một người con gái trinh trắng nữa… Tôi còn ít tuổi hơn con cái tên hung đồ…
Đến đêm thứ ba nhất quyết trốn đi, dù có sao cũng mặc. Dù có lạc đường hay bị bọn hung đồ đuổi kịp, tôi cũng sẽ chống cự cho đến hơi thở cuối cùng như Đuysen thầy tôi.
Trong đêm tối, tôi lặng lẽ lần ra phía cửa lều. Tôi sờ lên cửa thì thấy nó đã bị buộc chặt bằng một sợi dây thừng tết bằng lông đuôi ngựa. Nút dây xiết cứng rắc rối, tối mịt thế này không thể mở ra được. Tôi bèn cố vén thành lều lên để tìm cách bò ra ngoài. Nhưng dù tôi cố sức bao nhiêu cũng không sao vén được: ở phía ngoài cũng có những sợi chão căng sát vách lều xuống đất.
Chỉ còn cách tìm một cái gì sắc cạnh để cắt những sợi dây buộc cửa. Tôi bắt đầu lục lọi chung quanh, nhưng không tìm thấy gì ngoài một cọc gỗ nhọn. Trong cơn tuyệt vọng tôi bắt đầu lấy cọc đào đất dưới vách lều. Dĩ nhiên làm như vậy cũng chỉ uổng công, nhưng lúc bấy giờ tôi không còn hay biết gì nữa. Trong đầu tôi chỉ còn một ý nghĩ vô hi vọng – cố thoát ra khỏi chốn này hay là chết, miễn sao đừng phải ở lại đây; có chết thì cũng chết tự do, chết trong khi chống chọi với chúng, chứ không thể chịu khuất phục.
Tôkôn nghĩa là vợ lẽ. Ôi, sao tôi căm thù hai tiếng này đến thế! Ai đã nghĩ ra hai tiếng ấy, nó sinh ra từ những thời quái gở nào? Còn gì có thể ô nhục hơn tình cảnh của người vợ lẽ, bị ép buộc một bề, một kẻ tôi mọi cả về thể xác lẫn linh hồn? Hỡi những người khốn khổ kia, hãy từ đáy mộ đứng lên, hỡi oan hồn của những người đàn bà bị chà đạp, bị lạng mạ, bị tước hết phẩm cách làm người! Hãy đứng lên, hỡi những người bị đoạ đày hành hạ, hãy lay chuyển bóng tối đen đặc của thời xưa ấy! Hãy nghe tôi, người cuối cùng trong những người đã bước qua số kiếp ấy!
Đêm ấy tôi có hay đâu rằng sau này tôi sẽ thốt lên những lời kia. Tôi cứ hăm hở, mê mải đào đất dưới vách lều. Mặt đất ở chỗ ấy lởm chởm những đá không sao đào được. Tôi cào bằng móng tay, mấy ngón tay tôi toạc rách rớm máu. Và đến khi lỗ đào đã vừa rộng để thò tay ra ngoài lều thì trời đã hửng sáng. Chó sủa ran, người ở các lều bên đã bắt đầu thức dậy. Có tiếng vó rầm rập của một đàn ngựa phi qua lều xuống sông uống nước. Những đàn cừu ngái ngủ kéo qua, thở phì phò. Rồi có ai đến cạnh lều, tháo cởi những sợi chão căng ở ngoài và bắt đầu đỡ các tấm nỉ lợp lều. Đó là người đàn bà mặt đen trầm lặng.
Thế nghĩa là thôn du mục này sắp rời đi nơi khác. Tôi chợt nhớ ra rằng hôm qua tôi tình cờ nghe loáng thoáng họ nói sáng nay sẽ dời đến cắm lều ở trên đèo, tới chỗ chăn thả mới rồi sẽ sang bên kia đèo, đi sâu vào vùng núi ở suốt mùa hè trong ấy. Và tâm hồn tôi lại càng nặng trĩu: từ đấy trốn đi còn khó gấp trăm lần.
Lúc nãy tôi ngồi cạnh lỗ đào ra sao thì bấy giờ tôi cũng vẫn ngồi yên như thế, thậm chí chẳng buồn nhích sang bên nữa. Tôi còn giấu giếm làm gì cơ chứ… Người đàn bà mặt đen có trông thấy chỗ đất bị đào lên dưới vách, nhưng cũng chẳng nói chẳng rằng, tiếp tục làm công việc mình. Và nói chung bà ta luôn có vẻ như không có việc gì dính dáng đến mình cả, như thể không có gì trên đời này có thể gợi lên trong lòng bà ta một mảy may cảm xúc. Thậm chí bà ta cũng không muốn đánh thức chồng dậy, không dám xin hắn giúp mình một tay để thu vén lên đường. Hắn đang ngáy như một con gấu, mình ngập dưới đống chăn và áo khoác.
Những tấm dạ đều đã cuộn lại, lều chỉ còn lại một cái sườn và tôi như ngồi trong một cái lồng nhìn ra ngoài: cách đấy không xa, bên kia sông có mấy người đang thắng yên ngựa và xếp đồ đạc lên lưng bò. Rồi tôi thấy ba người cưỡi ngựa từ đâu bỗng phi về phía lều tôi đang ngồi. Thoạt tiên tôi tưởng họ đi tập hợp mọi người lên đường, nhưng khi nhìn kĩ lại tôi choáng người đi. Đó là Đuysen, còn hai người kia thì đội mũ lưỡi trai công an, mặc áo khoác đính dải khuy đỏ.
Tôi ngồi thừ ra như người chết rồi, thậm chí cũng không kêu lên được nữa. Tôi mừng quýnh lên: thầy tôi vẫn sống! – và đồng thời tôi bỗng thấy lòng tôi như trống hoác ra: nay tôi đã là một kẻ bỏ đi, một con người ô uế…
Đầu Đuysen quấn băng, tay cũng đeo băng. Thầy nhảy xuống ngựa, giơ chân đập sập cửa, chạy vào lều và kéo phắt tấm chăn đắp trên người lão mặt đỏ.
- Dậy! – Đuysen giận dữ quát.
Lão kia nhấc đầu lên, dụi mắt rồi toan chồm lên người Đuysen, nhưng lập tức phải chịu im khi thấy hai khẩu súng lục của hai người công an chĩa vào mặt. Đuysen túm lấy cổ áo hắn lay mạnh rồi kéo đầu hắn vào sát mặt mình.
- Đồ hèn mạt! – Đuysen nói thì thào qua đôi môi trắng bệch. – Bây giờ phải đi theo ta! Đi!
Lão kia ngoan ngoãn cất bước. Nhưng Đuysen lại nắm chặt lấy vai hắn rồi nhìn thẳng vào tận mặt hắn nói, giọng đứt quãng:
- Mày tưởng đã giày xéo lên Antưnai như xéo lên đám cỏ dại hẳn, mày tưởng đã hãm hại được Antưnai?… Mày lầm! Thời của mày đã hết, bây giờ đến thời của Antưnai, cái thời mà mày đã mạt kiếp rồi!…
Họ để cho tên mặt đỏ đi ủng, trói tay hắn lại và xốc lên ngựa. Một trong hai người công an cầm cương dắt đi, còn người kia cưỡi ngựa theo sau. Tôi ngồi lên yên ngựa của Đuysen, còn thầy đi bộ bên cạnh.
Khi chúng tôi cất bước, ở phía sau bỗng vang lên một tiếng rú man rợ, nghe không còn ra tiếng người nữa: người đàn bà mặt đen đang chạy theo chúng tôi. Như một người điên, bà ta nhảy chồm vào chồng, tay cầm một hòn đá ra sức đánh vào chiếc mũ da cáo đội trên đầu hắn, miệng hét thất thanh:
- Mày đã uống máu tao, đồ sát nhân! Mày đã đày đoạ tao suốt đời! Quân giết người! Tao không để cho mày sống mà đi khỏi nơi này đâu!
Chắc hẳn bốn mươi năm nay bà ta không ngẩng đầu lên. Và tất cả những gì bấy lâu chồng chất lại, sôi sục trong lòng bà ta, những gì vẫn đầu độc đời bà như một loài cỏ đắng, giờ đây đã bùng nổ ra. Những tiếng rú the thé của người đàn bà vang dội khắp các vách đá trong thung lũng. Bà ta lồng lộn quanh lão mặt đỏ đang sợ sệt co rúm người lại, ném vào lão ta nào đá, nào phân ngựa, nào những cục đất sét, vớ được gì cũng ném, lớn tiếng nguyền rủa:
- Sao cho cỏ đừng mọc ở những chỗ chân mày bước qua! Sao cho xương mày phơi trên đồng nội, sao cho quạ mổ mắt mày đi! Cầu trời đừng bắt tao thấy lại mặt mày lần nữa! Mày chết đi cho khuất mắt tao, đồ quái vật, mày chết đi, chết đi, chết đi! – Bà ta thét, rồi im bặt, vừa kêu gào vừa bỏ chạy. Có thể tưởng như bà muốn trốn thoát khỏi mớ tóc đang bay tả tơi trước gió đuổi theo mình.
Mấy người láng giềng vừa đến liền lên ngựa rượt theo.
Như một cơn ác mộng, đầu tôi cứ váng lên. Mình mẩy ê ẩm, tôi đờ đẫn ngồi trên lưng ngựa. Đuysen cầm cương đi trước một quãng. Thầy lặng thinh, mái đầu quấn băng cúi gầm.
Đi mãi hồi lâu chúng tôi mới ra khỏi cái thung lũng ghê rợn kia. Hai anh công an vượt lên trước, cách chúng tôi khá xa. Đuysen cho ngựa dừng lại và lần đầu tiên nhìn tôi, đôi mắt buồn rười rượi.
- Antưnai ơi, thầy không bảo vệ được em, em tha thứ cho thầy nhé. – Đuysen nói, đoạn cầm lấy tay tôi áp lên má. – Nhưng dù em có tha thứ đi nữa thì thầy cũng không đời nào có thể tự tha thứ cho mình việc này được.
Tôi khóc nấc lên và gục xuống bờm ngựa, Đuysen đứng cạnh, lặng lẽ vuốt tóc tôi và đợi tôi nín khóc. Cuối cùng thầy nói:
- Em bình tâm lại, Antưnai ạ, ta đi đi. Em nghe thầy nhé. Hôm kia thầy vừa lên huyện. Em sẽ lên tỉnh học. em nghe thầy không?
Khi chúng tôi dừng lại bên một ngọn suối trong veo tuôn chảy róc rách, Đuysen nói:
- Antưnai, em xuống ngựa mà tắm một chút. - Thầy rút trong túi ra một miếng xà phòng nhỏ. - Cầm lấy, Antưnai, cứ tha hồ dùng cho hết. Thầy sẽ ra kia cho ngựa ăn cỏ một lát, em cởi áo quần xuống tắm đi. Và em hãy quên những chuyện đã xảy ra, đừng bao giờ nhớ đến nữa. Tắm đi, Antưnai, em sẽ thấy dễ chịu hơn. Được chứ?
Tôi gật đầu. Và khi Đuysen đã dắt ngựa đi khuất, tôi cởi áo quần, thận trọng bước xuống suối. Những viên sỏi trắng, tím, xanh, đỏ từ dưới lòng suối nhìn tôi. Làn nước xanh lơ chảy xiết réo lên quanh mắt cá tôi. Tôi lấy tay vốc nước vỗ lên ngực. Những dòng nước mát rượi chảy trên thân thể tôi. Và tôi bất giác cất tiếng cười, lần đầu tiên trong suốt mấy ngày hôm ấy. Được cười, thích biết bao nhiêu! Tôi luôn tay vốc nước phả lên người rồi gieo mình xuống làn nước sâu. Dòng suối băng băng cuốn tôi đến một cồn cát. Tôi đứng lên rồi ngụp xuống xuống dòng nước chảy cuồn cuộn, tung bọt trắng xoá.
- Nước ơi, hãy cuốn đi tất cả những bùn nhơ, những nỗi ô nhục của mấy ngày hôm nay! Hãy làm cho tôi trong sạch như nước suối này! – Tôi thì thầm rồi cất tiếng cười vô cớ.
Tại sao vết chân con người không còn lại mãi mãi ở những nơi thân thiết, đáng ghi nhớ đối với lòng họ? Giá giờ đây tôi có thể tìm lại con đường mòn mà Đuysen đã đưa tôi xuống núi, tôi sẽ phục xuống đất và hôn lên những vết chân của thầy tôi. Đối với tôi con đường mòn ấy là con đường dẫn tới mọi con đường. Thiêng liêng và diễm phúc thay ngày hôm ấy, con đường mòn ấy, con đường đã dẫn tôi trở về với cuộc sống, với niềm tin mới vào bản thân mình, với những niềm hi vọng mới, với ánh sáng… Cảm ơn ánh sáng mặt trời, cảm ơn mảnh đất ngày hôm ấy…
Xem phần 5 (phần kết)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét