Những vế đối khó
trong lịch sử đều ẩn chứa tâm tư và lời gửi gắm của tiền nhân. Những thế hệ
trước đã có công khai phá và làm phong phú tiếng Việt trong trò chơi câu đối,
vậy chúng ta – trong giai đoạn đổi thông tin bùng nổ hiện nay – càng nên phát
huy thú chơi tao nhã này để gìn giữ và tôn vinh vẻ đẹp trong sáng của
tiếng Việt.
1. Vế đối
khó nhất mọi thời đại:
Giai thoại về vế
đối này cho rằng ngày xưa Trạng Quỳnh rất si mê Đoàn Thị Điểm… Một lần biết bà
đang tắm, Quỳnh liền đến bên nhà tắm và đòi bà cho vào ‘xem’. Bà một mực từ
chối, nhưng Quỳnh cứ nằng nặc, năn nỉ đòi vào. Nhanh trí bà nghĩ ra một cách
đối phó, bà nói sẽ ra một vế đối, nếu Quỳnh đối được sẽ cho vào xem. Quỳnh đồng
ý. Vế đối là:
“Da trắng vỗ bì bạch”
Quỳnh loay hoay
mãi cho đến khi bà tắm xong mà vẫn chưa đối được. Trạng Quỳnh vốn nổi tiếng là
người hay chữ, trong hoàn cảnh muốn xem người đẹp tắm nên (chắc chắn) ông đã sử dụng hết tài năng của mình ra để đối, nhưng
vẫn không đối được đã cho ta thấy độ khó của vế đối trên.
Từ ‘bì bạch’ theo
nghĩa tiếng Hán cũng chính là ‘da trắng’. Như vậy bản thân vế đối này đã chính
là một câu đối. Từ ‘bì bạch’ còn là một từ tượng thanh mô tả tiếng kêu của tay
vỗ vào mình khi có nước chảy. Vậy thì bì bạch ở đây vừa là tượng hình (da trắng) vừa là tượng thanh (tiếng động).
Các vế đối trong
lịch sử:
a. Rừng
sâu mưa lâm thâm.
Rừng là lâm, sâu là thâm nhưng chưa đạt vì chưa hợp với hoàn cảnh và lâm thâm
chỉ là một từ tượng hình.
b. Đêm
đen sờ dạ tối. Đêm là dạ, đen là tối nhưng cũng chưa hợp với hoàn cảnh. Đây là
một câu mô tả tâm trạng của một tên quan tham. Từ dạ tối chỉ có nghĩa tượng
hình.
2. Đối
được thì mời vào nhà chơi:
Một lần Trạng
Quỳnh đến nhà Đoàn Thị Điểm chơi bị chó đuổi chạy rồi phải nhảy tót lên cây
hồng. Đoàn Thị Điểm ra nhìn thấy rồi ra vế đối:
“Thằng Trạng Quỳnh ngồi trên cây cậy
dái đỏ hồng hồng”
Nếu Trạng Quỳnh
đối được mới đuổi chó đi mà mời vào nhà chơi.
Hồng là cây hồng,
quả hồng… Nhưng cây hồng cùng giống với cây cậy.
Trạng Quỳnh nghĩ
nát óc không ra nên phải ngồi mãi trên cây.
3. Vế đối
mía mật kẹo đường
Một lần Quỳnh từ
phố Mía về, Thị Điểm thấy Quỳnh đang ngồi, liền ra ngay một vế đối có ý trêu:
“Lên phố Mía gặp cô hàng mật, cầm tay
kẹo lại hỏi thăm đường”
Kẹo tiếng địa phương còn có nghĩa là kéo –
kẹo lại là kéo lại.
Gặp câu đối ra
toàn mía, mật, kẹo, đường; Quỳnh nghĩ mãi không ra vế đối, bí quá, đành đánh
bài chuồn.
Sau có người
khuyết danh đối là:
“Bà đồ Nứa đi võng đòn tre, đến khóm trúc
thở dài hí hóp”
4. Vế đối
nhìn nhau từ hai cửa sổ
Có một lần, Trạng
Quỳnh và Thị Điểm nhìn thấy nhau từ hai cửa sổ đối diện nhau, Đoàn Thị Điểm
ngẫu hứng bèn ra một vế đối:
“Hai người ngồi song song hai cửa sổ”
Chú ý vị trí của các từ: hai-song
song-hai, song là hai và song cũng có nghĩa là song cửa.
Lại gặp một vế đối
quá hóc búa, Trạng Quỳnh bí quá không đối được đành giả bộ tảng lờ, đi ra chỗ
khác.
Vienhanlam đề
xuất:
Bán hàng rẻ mãi mãi bán hàng rẻ
Đúng vị trí các từ
và mãi là bán (mại là mua).
5. Vế đối
thịt mỡ dò chả
Một lần giáp tết
Nguyên Đán trời mưa rả rích, Thị Điểm ngồi gói nem. Trông thấy Trạng Quỳnh đội
mưa đi mua rượu về, cô bảo muốn nhắm nem thì ngồi xuống cùng gói với cô. Quỳnh
trả lời: Chả (chẳng) thích nem, chỉ
thích giò. Thị Điểm liền ra một vế đối:
“Trời mưa đất thịt trơn như mỡ, dò đến
hàng nem, chả muốn ăn”
Và bảo nếu Trạng Quỳnh đối được câu này
thì cho ăn giò. Trạng Quỳnh nghĩ mãi nhưng không ra.
6. Vế đối
của ông chồng hai vợ
Ngày xưa có một
ông có hai vợ… Hai bà này đều là hạng gớm mặt nên hàng ngày ra vào “va thúng
đụng nia” dẫn đến cãi nhau. Một buổi ngồi trong phòng nghe hai bà vợ cãi nhau
ngoài sân, trong đầu ông chợt nảy ra vế đối:
“Vợ cả, vợ hai, cả hai đều là vợ cả”
Có một người khuyết danh đối khá tốt là:
“Con nuôi, con đẻ, nuôi đẻ há đợi con nuôi”
7. Vế đối
liệt kê vật cùng giống
“Ngồi cống ao, chàng bắc chân chữ ngóe
uống rượu thịt ếch, cóc có tiền lại còn nói ương”
8. Vế đối
bỡn khách Tàu
Hai danh sĩ phương
Bắc nghe tài Hồ Xuân Hương đến đưa danh thiếp ngỏ ý muốn cùng Xuân Hương đàm
đạo chữ nghĩa. Theo thủ tục thời đó, chủ nhân đưa ra vế đối, nếu khách đối được
thì mới ra mặt để tiếp khách. Vế ra của Hồ Xuân Hương như sau:
“Chân đi giày Tàu, tay bán bánh Đường,
miệng nói líu lường, ngây ngô ngấy ngố”
Hai người khách phương Bắc nghĩ một lúc
thì bỏ đi. Họ nhận ra rằng Xuân Hương qua vế ra có ý xem thường người phương
Bắc, nơi có ba triều đại Hán, Đường, Ngô vốn là kẻ thù của người phương Nam.
9. Vế đối pháo binh
Trong kháng chiến
chống Mỹ, nhà báo Nguyễn Thành ở Ban Quân sự, Báo Quân đội Nhân dân từng ra vế
đối:
Pháo thủ pháo tầm xa, đánh địch tầm
gần, tay thủ thêm thủ pháo.
Vế đối này khó là ở chỗ trong tổng 14 từ
thì có đến 3 từ pháo, 3 từ thủ, 2 từ tầm. Khẩu khí của vế đối cũng thật hào
sảng, hiên ngang, nên để tìm được vế đối lại là rất khó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét