NguyễnBỉnh Khiêm (1491–1585),
tên huý là Nguyễn Văn Đạt,
tên tự là Hanh Phủ, hiệu
là Bạch Vân am cư sĩ, được
các môn sinh tôn là Tuyết
Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử
cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách
đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển
của lịch sử Việt Nam .
Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được
phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen
gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn
ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Người đời coi ông là nhà tiên
tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng
thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
được xem là người xứng đáng kế thừa và phát triển ngôn ngữ thi ca dân tộc kể từ
sau thời Nguyễn Trãi, góp phần giúp nó đạt đến mức độ hoàn thiện cao dưới thời
Nguyễn Du. Hai tập thơ của ông là Bạch Vân am thi tập (chữ Hán) và Bạch Vân quốc ngữ
thi tập (chữ Nôm) được
coi là thành tựu lớn của thơ văn trung đại Việt Nam, mở đầu cho một dòng văn
học chạm chân vào hiện thực, đã mô tả xã hội dưới góc nhìn đời tư và đời
thường, là một cống hiến lớn của văn học thời Mạc đối với tiến trình phát triển
và hoàn thiện của văn học dân tộc.
Là một người xuất
thân từ tầng lớp trí thức quan lại nhưng cả cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao
giờ coi việc làm quan là lý tưởng cao nhất của sự nghiệp, cũng như là một nhà
nhân đạo chủ nghĩa ông luôn đề cao tư tưởng thân dân trong sách lược trị nước.
Ông cũng được sử
sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo, hoạch định
chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ.
Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các tập đoàn quyền lực phong kiến
Mạc, Lê-Trịnh, Nguyễn đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với tiến
trình của lịch sử dân tộc và từ đó tác động lớn tới quan hệ địa chính trị của
cả khu vực Đông Nam Á trở về sau. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu,
Nguyễn Bỉnh Khiêm có khả năng là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một
tầm nhìn chiến lược thấu suốt về chủ quyền của đất nước trên biển Đông ngay từ
thế kỷ 16. Ông cũng có thể là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ
Việt Nam - với
tư cách là quốc hiệu của dân tộc - một cách có ý thức nhất thông qua di sản thơ
văn của ông còn lưu lại đến ngày nay.
Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, là những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố
chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (từ
năm 1509 đến khoảng năm 2019). Đây
là những dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan
theo lẽ tự nhiên "thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả".
"Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa" Sấm ký, giai thoại và
giải đoán chứa đựng nhiều thú vị về một trí tuệ bậc Thầy kỳ tài muôn thuở, nặng
lòng yêu nước thương dân và sâu sắc hiếm thấy.
Sấm ký ở bản A có
262 câu, gồm 14 câu "cảm đề" và 248 câu "sấm ký". Ngoài bản
A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình.
Sấm ký gắn với
những giai thoại và sự thật lịch sử. Nhiều nội dung trong sấm ký hiện đã được
giải mã, chứng minh tính đúng đắn của những quy luật- dự đoán học trong Kinh
Dịch và Thái Ất thần kinh". Đến nay đã có 36 giai thoại và sự thật lịch sử
về Sấm Trạng Trình đã được giải mã.
Tương truyền, ông là
người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn
Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu
"Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" nghĩa là "Một dải
Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được
nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai
người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc "Cao Bằng tuy thiển, khả
diên số thể" (tức Cao
Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất
Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không
có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người
đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ
chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý
nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm
người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh
Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là
vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành
chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương
tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại
Trịnh vong".
Theo một số nhà
sưu tầm và nghiên cứu, Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được Trạng Trình dự báo
qua câu thơ: "Đầu Thu gà
gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long". ở câu 1, "đầu
Thu" là tháng 7 Âm lịch, "gà" nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự
kiện diễn ra, "gáy xôn xao" nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh
muôn người. Ở câu 2, "Trăng xưa" nghĩa là "cổ nguyệt" theo
Hán tự, ghép lại thành từ "hồ", là họ của Hồ Chí Minh. "Sáng tỏ
soi vào Thăng Long" là sự kiện Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng
trường Ba.
Trích Bạc am thi tập:
Cảm hứng
Thái hoà vũ trụ
bất Ngu Chu,
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu.
Trùng hưng dĩ bốc đồ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu,
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu.
Trùng hưng dĩ bốc đồ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu,
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.
Trương truyền bài thơ này làm ra
để tiên đoán việc nhà Lê sẽ trung hưng và nói đến việc họ Trịnh chuyên quyền
lấn áp vua Lê. Và những việc của ông tiên đoán điều không sai một mảy.
Trích Bạch Vân quốc ngữ thi tập:
Dại khôn
Làm người có dại
mới nên khôn,
Chớ dại ngây si, chớ quá khôn.
Khôn được ích mình, đừng rẽ dại,
Dại thì giữ phận chớ tranh khôn.
Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.
Chớ cậy rằng khôn khinh kẻ dại,
Gặp thời, dại cũng hoá nên khôn.
Chớ dại ngây si, chớ quá khôn.
Khôn được ích mình, đừng rẽ dại,
Dại thì giữ phận chớ tranh khôn.
Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.
Chớ cậy rằng khôn khinh kẻ dại,
Gặp thời, dại cũng hoá nên khôn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét