Thứ Bảy, 23 tháng 9, 2017

“ĐỪNG MÚC CẠN NỖI BUỒN” của NGUYỄN THỊ ÁNH HUỲNH – Một tập thơ hay hiếm có

Trong hình ảnh có thể có: 1 người 
Ảnh : nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh.

Tác giả: Trần Mạnh Hảo
Vừa qua, có một nhà thơ trẻ gọi cho tôi : “ Chú ơi, chú đã viết bài khen thơ hai nữ thi sĩ Nam Kỳ là Cát Du và Đinh Thị Thu Vân, còn một tài năng thơ quê Long An là Nguyễn Thị Ánh Huỳnh sao chú bỏ quên không viết bài khen ngợi ?”. Tôi trả lời : “ Chú mới chỉ đọc được chừng hơn chục bài của Ánh Huỳnh in trên báo mạng, khi nào chị ấy in tập thơ, có thể chú sẽ viết”. Nhà thơ trẻ kia ngạc nhiên quá, trách tôi thờ ơ với thời cuộc văn học, rồi ngay lập tức, anh cho người xe ôm chuyển đến nhà tôi tập thơ “ Đừng múc cạn nỗi buồn” ( NXB Hội Nhà Văn 2008, 50 bài) của nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh. Tôi đã đọc ngấu nghiến tập thơ này, rất thích và viết bài ngay.
Đọc xong tập thơ của Ánh Huỳnh, tôi rất buồn vì nước ta nhìn chung, hầu như thiếu nhà phê bình có con mắt xanh, toàn là một thứ bốc thơm nhau vô tội vạ. Ánh Huỳnh làm thơ tự do, ít khi có vần. Thơ chị hầu như bài nào cũng có tứ hàm súc, ẩn chứa tư tưởng sâu xa, có nhiều câu hay đến giật mình như khi chị viết về mùa thu, hay đến mức ít có thi sĩ nào viết về mùa thu hay thế : “ Thương lá vàng làm con ở mùa thu”.
Hầu như tôi chưa từng được đọc một tập thơ nào trong vòng 40 năm nay lại cuốn hút như “Đừng múc cạn nỗi buồn”. 50 bài thơ trong tập toàn từ khá tới hay, hầu như không có bài dở. Xin trích bài thơ đầu tiên của tập :

TỪ GIẤC NGỦ SINH RA
Có phải trời theo gió leo vào mũi con
Đất hóa thành cơm chui vào bụng con
Sông nước mượn cơn khát chảy vào máu thịt con
Nên khi con nhắm mắt
Vẫn nhìn rõ bầu trời
Khi con ngủ say
Vẫn sờ được tay vào sông vào bể
Con là hạt ủ mầm trong lòng mẹ
Con là chồi vươn tự khoảng trời cha
Cái con nhìn thấy khi thức
Nhỏ hơn nhiều lần từ giấc ngủ sinh ra !

Ánh Huỳnh gói tư tưởng mình vào cảm xúc để nó bừng lên ở hai câu cuối, rất thăng hoa : “ Cái con nhìn thấy khi thức / Nhỏ hơn nhiều lần từ giấc ngủ sinh ra”.Chao ôi, con có thể đi hết cái thế giới của thực tại, của ý thức, nhưng con không bao giờ đi hết được thế giới trong giấc mơ của mình. Hình như chúng ta được sinh ra từ giấc mơ của Chúa Trời, từ giấc mơ của cha mẹ ? Ánh Huỳnh, thi sĩ thoát thực tại và được sinh ra từ giấc mơ thi ca.
Chúng tôi xin trích nguyên một bài thơ cuối cùng của tập : “Đừng múc cạn nỗi buồn”:

KIẾP TRƯỚC MÙ TĂM
Đôi khi khùng
em ước
treo cổ lên cọng cỏ
như một giọt sương
sướng nhá
em long lanh
tan ra
cho chồng con kiếm tìm chơi
lại hoảng
vì trước khi hóa giọt sương
em chưa rửa chén
làm người
thật khó bốc hơi
chuồn khỏi thế giới này
em, con bé lá vàng mặc quần áo đất
chơi trốn tìm với gió
rên rỉ hồn thu
ú… u …
có khi tỉnh queo
kiếp trước mù tăm
tai em thành hang dế
ai kêu trong đầu mình
những tiếng ngàn xưa
rích ..rích …
buồn quá
đành phải vui
ai đang hát
yêu đi yêu đi
nhạt miệng kinh khủng
thử lấy tay nắm tóc
tự kéo mình lên khỏi thế giới
để làm gì
em không biết!

Ánh Huỳnh viết bài thơ này rất hiện đại, có phần đùa chơi, thậm chí nhí nhảnh con cá cảnh, nhưng quả tình sâu sắc, khiến người đọc buồn vui giật thót. Bài thơ này là phong cách đặc biệt Ánh Huỳnh, không hề giống ai, và không ai bắt chước được lối thơ có vẻ cà rỡn này của chị. Siêu ! Dường như chị bị đời sống thường ngày dồn tới chân tường, muốn thét mà không thể thét, muốn la mà không thể la, muốn khóc mà không thể khóc, muốn chết quách cho xong mà không thể chết : một cái tức cười nghèn nghẹn, đùa tếu mà đau thương mới thốt ra giọng điệu thơ này : “ buồn quá / phải đành vui” Chị than : “Làm người / thật khó bốc hơi”. Nhưng nhà thơ ạ, chị đã bốc hơi thành thi ca và phả sương mù vào làm cay khóe mắt người đọc. Tư tưởng của bài thơ là tư tưởng mù tăm - một khóe cười rơm rớm nhân sinh.

Thơ Ánh Huỳnh có cấu tứ rất chặt, lối cấu tứ của ngẫu nhiên hứng khởi không phải cấu tứ của ý thức. Dường như mạch thơ đã nằm sẵn trong tâm hồn chị, như nham thạch trong đất ứ đầy phụt lên núi lửa, nên rất khó trích, đành để nguyên cả bài thơ giữa tập này để bạn đọc thưởng lãm:

BÌM BỊP KÊU THƯƠNG
ai bịp mày chim ơi
mà bìm bịp suốt đời
hay sông Vàm Cỏ bỏ mày
đi lấy vợ
hay Đồng Tháp Mười bỏ mày
đi lấy chồng
bìm bịp
tiếng chim kêu
làm góa cả buổi chiều
cho chị ngủ nốt đêm Cần Đước
kêu thương chi cho đau lòng nhau
bật máu cây trạng nguyên
đốt cháy tán bàng
cứ bíp bịp hoài
chị không về Sài Gòn đặng
sợ chồng ghen
có ai lại lấy tiếng chim bìm bịp làm chồng ?
thôi chị phải bỏ đi
không dám ngủ trọn một đêm với tiếng kêu thương
tiếng chim có bùa ngải
bìm bịp bìm bịp…
tiếng kêu vò xé cả trời
nghe chim
có thể chết người
như không! 


Ánh Huỳnh có lẽ là nhà thơ viết hay nhất về chim bìm bịp. Bài thơ như một tác thi ca kỳ lạ, chặn hết lối của nhà bình thơ, không còn cách gì khen chê được nữa. Đọc bài thơ mà mắt rơm rớm. Cái rơm rớm hơn mọi lời bình . Ôi chao là những câu thơ rớm máu :
ai bịp mày chim ơi
mà bìm bịp suốt đời
hay sông Vàm Cỏ bỏ mày
đi lấy vợ
hay Đồng Tháp Mười bỏ mày
đi lấy chồng
bìm bịp
tiếng chim kêu
làm góa cả buổi chiều
cho chị ngủ nốt đêm Cần Đước
kêu thương chi cho đau lòng nhau
bật máu cây trạng nguyên
đốt cháy tán bàng.

Hình như Ánh Huỳnh có nuôi một con chim bìm bịp trong hồn. Một hôm nó bay ra và đậu lên trong giấy. Và trang giấy chợt bật khóc nghẹn ngào. Tác giả bài thơ sợ tiếng chim kêu ma ám quá, sợ chồng ghen, đành bỏ chạy khỏi đêm Cần Đước :
cứ bíp bịp hoài
chị không về Sài Gòn đặng
sợ chồng ghen
có ai lại lấy tiếng chim bìm bịp làm chồng ?
thôi chị phải bỏ đi
không dám ngủ trọn một đêm với tiếng kêu thương
tiếng chim có bùa ngải...

Không hẳn tiếng chim bắt hồn mà thơ chị có bùa ngải. Hình như cả tập thơ này đều ám ảnh bởi tiếng chim bìm bịp kêu thảm khốc, khiến nhà thơ mất hết hồn vía, sợ chồng ghen ! Thế này, ai mà là chồng nữ sĩ phải chấp nhận sự lãng mạng này : cái gì đã lọt vào mắt và thơ chị, cái đó bị Ánh Huỳnh hóa, bị thi ca hóa, bị cuồng si hóa. Nghe tiếng chim kêu trong đêm mà phải bỏ chạy về Sài Gòn thì trên đời này, chỉ có nữ thi sĩ quê Cần Đước Long An thôi ! Sợ vãi !

Trong thơ mình, chủ thể xưng ngôi thứ hai là chị, xưng là vợ, xưng là em, xưng là mẹ…có thể là chính tác giả mà có khi không phải là tác giả. Ngôi thứ nhất trong thơ chị, chìm đi, nhòe đi, nửa hư nửa thực hiện ra hình ảnh một người đàn bà sống cam phận, gần như một nô lệ tại gia, trong cảnh chồng chúa vợ tôi, có ông chồng (ông xã, ba sắp nhỏ) ghen trời thần đất lở. Tiếng thơ chị cũng là tiếng kêu than đòi quyền sống của người đàn bà, nói gọn lại là đòi nữ quyền, đòi quyền được đối xử dịu dàng, đả đảo mọi sự thô bạo. Chưa có nhà thơ nữ nào trong đời như chị, thèm sự dịu dàng như bóng đêm thèm ban mai. Cả thế giới này, chẳng lẽ không ai đem đến cho chị sự dịu dàng hay sao mà lời thơ chị lại nghẹn ngào dường này, như một kẻ ăn mày sự dịu dàng của cả loài người. Xin bạn đọc đừng làm bay mất sự dịu dàng khi đọc bài thơ “Dịu dàng ơi” của Ánh Huỳnh:

DỊU DÀNG ƠI
Dịu dàng quá dịu dàng không chịu nổi
(Olga Bergon)
Se sẽ thôi ba của sắp nhỏ ơi
Vì ngoài kia hoa quỳnh đang nở
Tươi tỉnh lên ba của sắp nhỏ ơi
Vì ngoài thềm ánh trăng đang tỏ tình với hoa lài
Rạo rực lên ba sắp nhỏ ơi
Vì ngoài đại dương lưỡi sóng đang liếm cát
Thảnh thơi lên ba của sắp nhỏ ơi
Vì trên mái nhà ta trời dịu dàng đang ôm đất
Từ từ thôi ba của sắp nhỏ ơi
Vì ngoài sông phù sa đang hoài thai …
Ôi sự dịu dàng
Có thể biến sư tử thành nai
Thiếu sự dịu dàng
Con nai trong nhà ta có khi thành sư tử
Tôi được hưởng sự dịu dàng trong giấc ngủ
Của người đàn ông ảo không rõ mặt
Ba của sắp nhỏ ơi
Đừng ghen với kẻ hào hoa cuối cùng đang đợi để ga - lăng tôi
Kẻ đó có tên là Đất
Để chết rồi tôi được dịu dàng ôm…

Ánh Huỳnh làm chúng ta bất ngờ vô cùng ở câu kết : “Để chết rồi tôi được dịu dàng ôm”. Hóa ra sự dịu dàng của mẹ đất là sự dịu dàng đời đời sẽ được ôm ấp người phụ nữ bất hạnh; sự dịu dàng của nỗi tủi thân ôm phận người ngủ say dưới nấm cỏ. Nói cho cùng, đất và cỏ mới chính là tình nhân vĩnh hằng, là người chồng muôn thuở của thi ca chị. Cám ơn người đàn ông ảo nào đó đã đi về trong giấc mơ để ban tặng nữ thi sĩ món quà của Chúa Trời là sự dịu dàng vô tận trong cuộc đời thô bạo, bỗ bã hố hầm này.
Người đàn bà trong thơ Ánh Huỳnh hi vọng sinh ra để được “sướng muốn chết”:

SƯỚNG MUỐN CHẾT
Anh bảo em :
- Má mày lấy tao sướng muốn chết !
- Không lấy tao chắc giờ này bán vé số!
Ngày ấy không gặp anh
Em vẫn là con chim manh manh
Lẻ loi đậu tít cành chanh
Lấy chồng như lấy mảnh sành đứt tay…
Lấy chồng sướng muốn chết
Làm mẹ ba đứa nhỏ sướng muốn chết
Thành bà nội được làm ôsin sướng muốn chết
Sướng muốn chết khoảng trời xanh sau bếp
Mưa cho suối chảy trong nhà
Có khi trời xuống la đà nồi niêu
Sướng muốn chết mùi dạ lan hương ngạt thở
Ăn ở với cà với dưa
Đẻ ra mắm muối mà chưa biết tình
Sướng muốn chết đàn ông dạy vợ
Thương lá vàng làm con ở mùa thu
Đám mây muốn chết thành mưa
Tự dưng chim hót tưởng chưa có chồng…

Có cảm tưởng như Hồ Xuân Hương tủi phận hóa thân thành Ánh Huỳnh khiến ngòi bút chị bỗng cay đắng vô vàn, tủi phận vô vàn : “Ăn ở với cà với dưa / Đẻ ra mắm muối mà chưa biết tình”. Tiếng kêu đòi quyền làm một người đàn bà đích tực luôn dằn vặt, vò xé tâm hồn nữ sĩ. Chị là “ lá vàng làm con ở mùa thu” ! Cái đẹp của tàn tạ, của héo úa vẫn có lúc le lói trong thơ chị thành niềm lạc quan, dù là lạc quan tếu, đọc lên mà xót xa, mà mủi lòng :
“Đám mây muốn chết thành mưa
Tự dưng chim hót tưởng chưa có chồng…”

Nhờ nữ sĩ, ta mới biết đám mây chết hóa thành mưa; và chia vui với chị, dù trong cái bếp khói um, tiếng chim vẫn lọt vào rủ rê chị về cái thuở “ chưa có chồng”, cái thuở chị được quyền ngoại tình với cả trời đất, như trong bài thơ lục bát rất Nam Kỳ, rất Ánh Huỳnh, rất hay như sau:

NGƯỜI ĐÀN BÀ VIỄN CHINH
Có ai đang đi ngoài kia
Vào đây chút để tôi chia muộn phiền
Bàng hoàng cơn gió nổi điên
Xé tan tành đám mây thiền trời xanh
Tôi ngồi dưới mái nhà tranh
Mà tâm hồn chạy loanh quanh ngoài đường
Chồng tôi bảo tôi đáng thương
Chuyện nhà lo ít muôn phương lo nhiều
Tôi không nói cũng lắm điều
Hồn tôi như một con diều đứt dây
Tại trời xanh hút lòng cây
Giấc mơ cũng bị trời gây phiền hà
Lại còn chim bướm còn hoa
Lá vàng dụ dỗ tôi ra khỏi mình
Hồn tôi là cuộc viễn chinh
Người chung thủy thích ngoại tình thiên nhiên. 


Xin chào người đàn bà viễn chinh, người đàn bà phải lòng với tất cả, “ngoại tình với thiên nhiên”. May mà cái thế giới ảo trong tâm hồn người đàn bà này vẫn còn nguyên cả thiên nhiên trinh bạch, còn nguyên chàng gió, còn nguyên trời xanh cứu rỗi. Ta tìm thấy một tuyên ngôn thơ tuyệt vời của nữ sĩ:
“ Hồn tôi như một con diều đứt dây”
Chỉ có gió mới ghen với con diều đứt dây này mà thôi. Không một người thực tại nào đuổi bắt được tâm hồn “đứt dây” của chị, dù người ấy là “ba sắp nhỏ” đi chăng nữa.
Không phải trai hay ông râu xồm râu quặm nào rủ rê nổi người đàn bà này bỏ bếp núc, bỏ chồng con đi bụi, mà chính chàng “Sở Khanh” có tên là “lá vàng” dám lẻn đến rủ rê tâm hồn chị đi ngoại tình với mùa thu. Đây cũng là một tuyên ngôn thơ thú vị của Ánh Huỳnh :
“ Lá vàng dụ dỗ tôi ra khỏi mình”
Một câu thơ hay tuyệt. Trời ơi, chỉ một chiếc lá vàng rơi đã “dụ dỗ” được chị ra khỏi hồn mình phiêu du với anh gió, với chị mây. Hình như thân xác ta càng bị kẻ khác dồn vào bế tắc cùng đường thì tâm hồn ta càng tìm mọi cách tự giải thoát mình ra khỏi hoàn cảnh, càng thích phiêu du với trăng sao sông nước. Cám ơn Trời Phật, cám ơn Chúa đã ban cho ta linh hồn biết bay nhảy khắp vũ trụ, biết tìm thấy sự an ủi của tha nhân, dù là tha nhân ảo như thơ Ánh Huỳnh đã tìm được tri âm tri kỷ lá vàng.
Người đàn bà trong thơ Ánh Huỳnh đã tìm ra hạnh phúc ngay trong nỗi bất hạnh hôn nhân. Bài thơ “Trăng sừng bò” là bài thơ tình hay một cách hóm hỉnh, cái hay của tiếc nuối thời con gái, chấp nhận tàn phai vì chồng con, hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Xin trích cả bài:

TRĂNG SỪNG BÒ
Anh bảo em :
ngước mắt lên dòm buổi tối trên đầu
trăng sừng bò nằm trên nhà ta
ôi trăng sừng bò
anh đã yêu em bởi vầng trăng vểnh ngược
con bò đi chơi
chỉ để lại cặp sừng
em
nghênh đêm
anh ơi
ngày xưa ta chớm đôi mươi
anh với tay lên trời
bẻ trăng sừng bò xuống
cho các con anh bú
giờ chỉ còn trăng
không phải sừng bò!

Bài thơ là một niềm vui sống nơi người đàn bà của chịu đựng, của bếp núc, của chén bát nồi niêu, nhọ nồi khói bếp. Thật bất ngờ câu thơ:
anh với tay lên trời
bẻ trăng sừng bò xuống
cho các con anh bú
Người đàn bà đã mang vầng trăng sừng bò thiếu nữ trên ngực mình, đặng dâng hiến cho chồng con, làm thiên chức phụ nữ. Cái dáng “anh” trong bài thơ thật ngạo nghễ, thật phi thường: “bẻ trăng sừng bò xuống / cho các con anh bú”.Ôi chao, người đàn bà cao lớn như vũ trụ, như thiên nhiên, dùng vú trăng nuôi nấng các hài đồng. Để mấy chục năm người đàn bà ngó xuống : “ giờ chỉ còn trăng / không phải sừng bò”. Cám ơn những người mẹ đã nuôi lớn cả loài người bằng cả tâm hồn mình từng cong vút hai sừng bò sự sống. Thơ Ánh Huỳnh đã chạm vào trái tim những kẻ từng bú sữa sừng bò của bà mẹ trẻ ngày xưa, trong đó có người đang bình tán thơ chị.
Thơ Ánh Huỳnh trong tập này, hầu như bài nào cũng khá, cũng hay, không thể trích ra cả tập để khen được. Chúng tôi đành trích câu để bình phẩm hầu độc giả :
Người đàn bà trong thơ Ánh Huỳnh có thứ vũ khí vô song, như một trái bom thu nhỏ bằng hạt sương, mạnh hơn bom nguyên tử. Ấy chính là nước mắt. Nữ thi sĩ dặn con:
khi yêu
có nước mắt dẫn đường
Có thể nói, con đường nước mắt đã dẫn Ánh Huỳnh tới thi ca. Chừng như kẻ ác không biết khóc ? Khóc là dấu hiệu của nhân tính, của trái tim yêu đạt đến tột cùng. Hình như cả Phật và Chúa đã đi theo con đường này để đến với nhân loại ? Chị dặn con hãy tin vào giọt nước mắt và đi theo nó đến cuộc đời này. Câu thơ hay một cách kinh ngạc. Hình như con đường của dân tộc ta đang đi cũng là con đường nước mắt, con đường đau thương mà thi ca Ánh Huỳnh đã trải qua. Chị lại viết thật hay về nước mắt, chao ôi chết rồi nằm trong mồ sao lệ vẫn còn tuôn :
Mẹ giấu nước mắt vào thơ
Cám ơn giọt lệ bơ vơ làm người
Cám ơn khóc núp trong cười
Cám ơn nước mắt chết rồi còn tuôn…

Tôi yêu “giọt lệ bơ vơ làm người” này biết bao nhiêu cho vừa. Hèn gì Xuân Diệu từng viết : “ Trái đất ba phần tư nước mắt / Đi như giọt lệ giữa không trung” (Có lần anh Huy Cận bảo tôi, hai câu thơ này của Cận cho Diệu trong bài "Lệ"). Từ “giọt lệ bơ vơ” đến trái đất bơ vơ chừng như chỉ cách một câu thơ của Ánh Huỳnh và Xuân Diệu? Người đọc nhờ thi ca mà tìm được cái bơ vơ của bản thể vũ trụ. Chính vì bơ vơ quá, anh phải tìm em mà núp. Chúng ta chừng như đang bơ vơ giữa sa mạc cuộc đời. Cần phải níu vào nhau mà tồn tại. Bơ vơ à ơi hỡi bơ vơ…

Thơ Ánh Huỳnh đầy những phát hiện sâu sắc. Mẹ sinh ra con, đồng thời mẹ cũng sinh lại chính tuổi thơ mình. Con là tâm hồn mẹ, tuổi thơ mẹ được tái sinh. Xin đọc ba câu thơ rất hay của Ánh Huỳnh ca ngợi con mình đã sinh ra tâm hồn mình:
Cám ơn con
Mẹ đã sinh ra thân xác con
Nay con chợt sinh ra tâm hồn mẹ!
Con chợt sinh ra tâm hồn mẹ ! Câu thơ nhân ái vô cùng và hay khôn xiết không chỉ bởi tính triết học của nó. Triết học trong thơ Ánh Huỳnh là triết học thơ ngây, triết học của xúc cảm ! Nhờ câu thơ này, tôi mới phát hiện ra rằng tâm hồn ta cần con trẻ, cần sự bi bô hài nhi để được sinh ra mãi mãi. Chả thế mà Chúa đã phán: “ Này ta bảo cùng Phê rô: nếu ai không hóa thành con trẻ thì nước trời không thuộc về kẻ ấy”. Tâm hồn ta tồn tại trong kẻ khác, bằng kẻ khác. Hãy làm cho tâm hồn mình hóa hài nhi, thưa bạn, bạn đã đạt được Niết Bàn hay thiên đường. Tôi chưa tìm thấy một câu thơ nào trên đời như câu thơ viết về mối quan hệ mẹ con hay như Ánh Huỳnh đã viết : mẹ sinh ra thân xác con, con sinh lại tâm hồn cho mẹ.
Nhưng tâm hồn cũng như thân xác, cần được nuôi bằng thực phẩm riêng của nó. Thân xác phải ăn, phải uống, phải hít thở mới tồn tại. Người chồng bảo người vợ trong thơ Ánh Huỳnh sao không lo cái hầu bao, chỉ lo cái tào lao vớ vẩn. Nhưng những món tào lao, món vẩn vơ, món không đâu, món ấm ớ nửa hư nửa thực kia mới chính là thực phẩm của tâm hồn. Xin hãy đọc khổ thơ sau của tác giả để cảm nhận cùng chị, rằng để có một tình yêu, một tâm hồn mơ mộng lãng mạn, đặng cân bằng với thực tế phũ phàng hầu như không phải là chuyện dễ:


Một đời nô lệ hầu bao
Một đời bỏ cái tào lao theo chồng…
Bỏ đóm đóm miệt vườn về phố
Ngất ngây hương lúa thơm tào lao
Suýt chết đuối đáy hầu bao
Nhờ đom đóm miệt vườn cứu thoát
Nhờ tiếng chim hót quên mất mình là ai
Như chết đuối sông sâu níu được vạt lục bình
Nổi lên mới biết còn mình
Cái không ăn được là tình đó anh.

Xin cám ơn những món không ăn được kia, những miệt vườn đom đóm, những vạt lục bình bâng quơ, những sớm mai chim hót, những bờ bao hương lúa xôn xao trong thi ca, trong cuộc đời đã cứu rỗi tâm hồn ta.
Ánh Huỳnh thường thấy những buổi chiều liêu trai bị thực tại hắt đổ đi như đổ một bát nước. Câu thơ rất hội họa, rất điện ảnh này đang cầu cứu chúng ta hốt lại những buổi chiều thi ca bị thói vô cảm đổ sông đổ biển:
Đám mây màu bã mía
Đã hắt chiều
Đổ đi !
Chao ôi là những đám mây màu bã mía, những đám mây bị gió vắt kiệt cùng đã hắt chiều đổ đi. Ai đã đổ chiều vào đêm, đổ anh vào em cho cái hôn bão táp, cái hôn bốc lửa :
Nhớ tối nào
anh hôn em
bầm dập cả trăng non
Cái hôn “ bầm dập cả trăng non” làm nảy đom đóm mắt, làm nhòe nát cả trời khuya tưởng còn quằn quại câu thơ, vết thương yêu tưởng nuốt mất môi người :
ước gì trời rét
để em được gói đôi môi mình
vào chiếc khăn len.
Môi đã bị thương vì cái hôn thi ca, muốn được gói vào khăn len gửi tình xa rét mướt. Thi ca, chừng như đã vượt qua mọi giới hạn thực tại để tới miền đất hứa của mình là tưởng tượng, là vô biên. Và người đàn bà trong thơ Ánh Huỳnh chết rồi còn thấy rét, còn cần chiếc chăn của tình yêu có tên là nấm cỏ đắp lên cho ấm thi ca, cho ấm hồn người:


Mai sau
Em ngủ giấc muôn đời
Chỉ còn sóng
Thuỷ chung
Anh đắp lên mồ em
Từng sóng cỏ …
Những câu thơ tỏ tình với gió của Ánh Huỳnh sao buồn thương thế, ám ảnh thế, mênh mông thế :
Thế rồi gió cướp em đi
Bóc em như bóc hành khi điên cuồng
Gió ngoan thì thổi ngoài đường
Sao vô phòng ngủ gió lường gạt em?

Nhà thơ bị cơn gió tình si lường gạt rủ rê hoài : đi đi, thoát khỏi cái thế giới tẻ nhạt và buồn đau này để đến với bao la, đến với cái không bờ bến của hư vô, của cõi địa đàng thăm thẳm xa xưa vẫn nằm trong mộng tưởng. Nàng thơ rủ cả thế giới chưa trưởng thành này đi làm vua, những ông vua xách dép, vua cởi truồng, vua bị mẹ rượt mếu máo khóc ù ơ:
Nào các anh hai, anh ba …
theo em đi làm vua
ta trở về thời con nít
một thế giới chưa trưởng thành
ai cũng thích làm vua !

Thơ Ánh Huỳnh tồn tại trong nỗi buồn; xin độc giả đừng múc cạn nỗi buồn trong chiếc giếng cô đơn của nữ thi sĩ :
xin anh
đừng múc cạn nỗi buồn
trong đôi mắt em
để em còn là giếng nước.
Xin đọc những câu thơ rất hay, rất thi sĩ này của Ánh Huỳnh mà chia sẻ với những buổi chiều góa bụa hoàng hôn, những buổi chiều tâm hồn chị trải lá vàng cho thi ca se sẽ dấu chân chim :
ôi những buổi chiều
không có hôm qua
em vẫn còn anh
mà goá những buổi chiều
chiều hôm nay ơi
anh ơi
nhẹ chân thôi
chúng ta đang dẫm lên
xác những buổi chiều
Linh hồn những chiều đã bị thi ca bắt mất. Xin hãy nghiêng mình mặc niệm cho “xác những buổi chiều” của chị được yên nghỉ dưới hoàng hôn thi tứ…
Tôi tin rằng thi phẩm kỳ lạ “ Đừng múc cạn nỗi buồn” của nhà thơ Ánh Huỳnh sẽ còn mãi trong tình yêu thi ca bạn đọc. Tiếc thay, tập thơ đã ra đời 9 năm, hôm nay tôi mới được đọc. Tôi sẽ mang “những buồi chiều không có hôm qua” của nữ nhà thơ đi vào cõi lặng, để chiêm nghiệm và để yêu tiếng Việt của chúng ta đến trọn đời.,.
Sài Gòn ngày 01-9-2017
T.M.H.


PHỤ LỤC :
Xin quý độc giả đọc thêm 5 bài thơ của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh trích trong tập thơ :

CHO EM MỘT LY QUỶ SỨ
Đêm
nửa trái đất
chìm trong vại cà phê đen
vũ trụ
cho em một tách đêm
quỷ sứ cũng không đen hơn cà phê
anh
tách cà phê đen đầu đời em
giọt giọt
nhâm nhi từng ngụm quỷ sứ
cỏ tình yêu màu đen
anh lấy cà phê rưới đẫm cỏ
đêm nuốt dần ta trong tiếng thạch sùng
em như muỗng đường
anh khuấy đêm thành bọt sao khuya
ai bảo bóng tối chứa âm mưu
cái thiện dễ nảy mầm trong đêm
cái ác hay nhân danh mặt trời
đen đen đen
đừng để quạ
bôi nhọ màu cà phê
cho em một ly anh
quỷ sứ cũng không đen hơn
cà phê cô đặc
tròng tròng mắt đen
quỷ sứ nếu có thật
mắt chắc trắng dã
cho em một ly quỷ sứ
em uống thật nhiều bóng tối
để ánh sáng
còn chỗ núp
trong em !

ĐÊM LƯNG LỬNG ANH
Phải anh chưa từng mang đến cho em
trăng non
hay bản thể em
toàn trăng khuyết
trăng em chưa lúc nào tròn
ôi đêm tân hôn
trăng chợt méo như miệng chú Cuội
chó con, chó con
cười chết mất
đừng, đừng, đừng…
tặng em
những đám mây hình vuông
em không thích
những con chim tròn xoay
vừa bay vừa cười …
đêm đêm
em rơi hết mắt
giấc ngủ mù
chiêm bao mù
những vì sao mù
ánh sáng mù
tình yêu mù
ngày ngày
em soi
toàn những chiếc gương mù
anh nhúng em vào bóng tối
mà em chưa bị nhuộm đen
anh luộc em trong ánh trăng
em chưa bị vàng
chưa bị chín
ba mươi năm
ai hất đổ
những ly- đêm-em ?
đêm của gián, của chuột, của gà…
cũng đầy ắp
sao chỉ đêm em
vơi ?
đêm em
lưng lửng anh
em
người đàn bà lưng lửng.


BUỔI CHIỀU KHÔNG CÓ HÔM QUA
Em đang ngồi ở chiều hôm qua
sao anh lại kêu là chiều hôm nay ?
rõ ràng chiều hôm qua đang ngồi trên ghế
chiều hôm qua còn nằm trên giường
chiều hôm qua nấc trong kẽ răng
chiều hôm qua ép thành ly nước mía
hoa hồng hôm qua
nụ hôn hôm qua
mùi hương mồ hôi hôm qua
đâu mất tiêu rồi ?
bắt đền anh chiều hôm qua
em vừa ôm chiều qua
vừa uống chiều qua
vừa thơm chiều qua
vừa khóc chiều qua
vừa ngủ chiều qua
mở mắt ra
lại thấy chiều này
anh cũng theo chiều hôm qua
đi như chim
chiều hôm nay anh lại đến
không mang theo chiều qua
hôm qua của em
anh giấu ở đâu ?
ôi những buổi chiều
không có hôm qua
em vẫn còn anh
mà goá những buổi chiều
chiều hôm nay ơi
anh ơi
nhẹ chân thôi
chúng ta đang dẫm lên
xác những buổi chiều …

ĐỪNG MÚC CẠN NỖI BUỒN
Trăng trầm mình
xuống giếng
mà trăng không chết
em gọi nỗi buồn
là giếng nước
múc từng gàu nỗi buồn
em tắm
tìm vui
đôi mắt anh
còn buồn hơn cả giếng
tình yêu
ban đầu vui như gàu
kết thúc buồn như nước
em đi đâu
giếng cũng theo đi
trăng cứ tìm mắt em
đòi tự tử
chúng ta lấy nhau
vì khát
giếng nước yêu
đứt sợi dây gàu
ôi nỗi buồn
trăng múc lên từ giếng
em ngó trời
thấy giếng mọc thành sao
xin anh
đừng múc cạn nỗi buồn
trong đôi mắt em
để em còn là giếng nước.


THIÊN ĐƯỜNG
Ba mươi năm trước
Anh lấy thiên đường dụ chị
Thiên đường tình nhân
Thiên đường làm vợ
Thiên đường làm mẹ
Thiên đường làm ôsin trong nhà vừa phải kiếm tiền ngoài chợ
Thiên đường làm trâu bò
Những đám mây trắng vốn là tình nhân của chị thời thiếu nữ
Không được bay qua thiên đường
Những vạt cỏ non, những công viên xanh từng là bạn bè của chị thời sinh viên
Không được xanh trên thiên đường
Những bãi biển Vũng Tàu, Mũi Né
Không được vỗ sóng mát rượi trên thiên đường
Những rạp hát, rạp xi - nê
Không được trình chiếu trên thiên đường
Những Đà Lạt, Nha Trang, Sa pa…
Bị đuổi khỏi thiên đường…
Anh vẫn thề : 

Yêu em
Rằng chỉ có tình yêu
Mới có khả năng tìm ra thiên đường
Trong địa ngục
Rằng nếu có kiếp sau
Anh lại tìm
Để dắt em lên …
Chị hoảng hồn hắt hơi
Toát mồ hôi lạnh
Chị thắp hương lạy Trời, lạy Phật :
- Xin thần linh đừng cho con kiếp sau !
Đêm đêm trong giấc ngủ
Chị chạy trốn thiên đường
Nhưng chị bị bắt lại bởi tiếng ngáy của ông Trương Phi
Nguyễn Thị Ánh Huỳnh

1 nhận xét:

  1. Bài viết đầy đủ về nữ sĩ -muốn nói thêm mà không có ý để nói

    Trả lờiXóa